Xin hân hạnh giới thiệu đến vị quý 80 mã số nhạc chờ của Pháp Như trên Mobifone: 1 Ân cha mẹ như biển trời 50611055, 2 Ân cha mẹ như biển trời 5166917, 3 Bông hồng cài áo 50611062, 4 Bông hồng cài áo 5166918, 5 Bông hồng dâng cha 50611064, 6 Bông hồng dâng cha 5166919, 7 Bước chân Yên Tử 50611067, 8 Bước chân Yên Tử 5166920, 9 Chùa tôi 50611072, 10 Chùa tôi 5166921, 11 Còn thương rau đắng mọc sau hè 50611076, 12 Còn thương rau đắng mọc sau hè 5166922, 13 Đêm Pháp Hoa 50611080, 14 Đêm Pháp Hoa 5166923, 15 Diệu pháp 50611081, 16 Diệu pháp 5166924, 17 Diệu pháp âm 5166925, 18 Đời Tăng lữ 50611087, 19 Đời Tăng lữ 5166926, 20 Em đi trên cỏ non 50611089, 21 Em đi trên cỏ non 5166927, 22 Gánh hàng rong 50611092, 23 Gánh hàng rong 5166928, 24 Giấc mơ cánh cò 50611095, 25 Giấc mơ cánh cò 5166929, 26 Hoa kinh Bồ tát Khiêm Từ 50611097, 27 Hoa kinh Bồ tát Khiêm Từ 5166930, 28 Kinh cầu Mẹ Từ Bi 50611098, 29 Kinh cầu Mẹ Từ Bi 5166931, 30 Làng tôi 50611129, 31 Làng tôi 5166932, 32 Lạy Phật Quan Âm 50611128, 33 Lạy Phật Quân Âm 5166933, 34 Lời sám nguyện 50611126, 35 Lời sám nguyện 5166934, 36 Lời tạm biệt của người tìm đạo 50611124, 37 Lời tạm biệt của người tìm đạo 5166935, 38 Lòng mẹ 50611123, 39 Lòng mẹ 5166936, 40 Lục cúng dường 50611121, 41 Lục cúng dường 5166937, 42 Mẹ là Phật 50611119, 43 Mẹ là Phật 5166938, 44 Mẹ là vầng trăng 50611118, 45 Mẹ là vầng trăng 5166939, 46 Mẹ tôi 50611114, 47 Mẹ tôi 5166940, 48 Mẹ Từ Bi 50611110, 49 Mẹ Từ Bi 5166941, 50 Mùa duyên 50611107, 51 Mùa duyên 5166942, 52 Ngọn lửa tuổi hai 50611105, 53 Ngọn lửa tuổi hai 5166943, 54 Ống thổi lửa 50611103, 55 Ống thổi lửa 5166944, 56 Phật Hoàng Trần Nhân Tôn 50611100, 57 Phật là ánh từ quang 50611096, 58 Phật về 50611093, 59 Phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật 50611091, 60 Tạ ơn mẹ 50611090, 61 Tâm xuân 50611084, 62 Tâm xuân 5166945, 63 Thì thầm với nắng 50611083, 64 Thì thầm với nắng 5166946, 65 Thiền sư Chùa Đậu 50611078, 66 Thiền sư Chùa Đậu 5166947, 67 Thờ kính mẹ cha 50611075, 68 Thờ kinh mẹ cha 5166948, 69 Tiếp bước dấu chân xưa 50611073, 70 Tiếp bước dấu chân xưa 5166949, 71 Trăng tròn tháng tư 50611071, 72 Trăng tròn tháng tư 5166950, 73 Trở lại Bạc Liêu 50611070, 74 Trở lại Bạc Liêu 5166951, 75 Vì có Phật 50611069, 76 Ví có Phật 5166952, 77 Vu Lan nhớ mẹ 50611066, 78 Vu Lan nhớ mẹ 5166953, 79 Xuân trong cửa thiền 50611063, 80 Xuân trong cửa thiền 5166954, * Để chọn bài hát làm nhạc chờ trên mạng Mobifone:Soạn tin nhắn theo nội dung như sau: 1. Đăng ký sử dụng, soạn tin: DK gởi 92242. Cài đặt bài hát- Cài đặt bài hát: CHON masobaihat gởi 9224 Ví dụ: để tải bài Đời Tăng lữ bạn chỉ cần soạn: CHON 50611087 gởi 9224 - Gửi tặng: TANG mabaihat sodienthoainhan gởi 9224 Ví dụ: để tặng bài Đời Tăng lữ cho bạn bè bạn chỉ cần soạn: TANG 50611087 số điện thoại người nhận gởi 9224 Để biết thêm chi tiết xin vui lòng truy cập: http://www.mobifone.com.vn

Thứ Hai, 6 tháng 12, 2010

Vĩnh Tràng - ngôi chùa nổi tiếng miền Tây Nam Bộ

DẪN NHẬP
Theo đoàn thực tập môn Du lịch danh lam cổ tự của khoa Phật giáo Việt Nam thuộc Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đến chùa Vĩnh Tràng vào một buổi sáng ngày 31 tháng 10 năm 2010. Cũng như bao sinh viên khác, tôi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của ngôi chùa này. Dù đã có lần tôi nghe các bạn thuyết trình về bộ tượng Thập bát La Hán bằng gỗ của chùa Vĩnh Tràng mà những người nghệ nhân Nam bộ đã tạc vào thế kỷ XIX nhưng tôi cũng không ấn tượng lắm. Cho đến hôm nay, khi đứng trước ngôi chùa này tôi mới cảm phục trí tuệ tài hoa và đôi tay khéo léo của người xưa đã để lại một công trình có một không hai trên dãi đất hình chữ S. Lúc đó tôi cũng chưa có ý tưởng sẽ làm bài về ngôi chùa này mà đang hướng đến một ngôi chùa khác. Tôi chụp lại một vài tấm ảnh để làm kỷ niệm cho một chuyến đi như bao nhiêu người đến đây. Khi xem lại những bức ảnh của mình vừa chụp lại tôi hoàn toàn bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của ngôi chùa này trong ảnh.
Khác với những ngôi chùa của Sài Gòn nằm len lỏi giữa nhà cửa heo hút với không gian chật chội thì nơi đây có khoảng không gian trống và những công trình với kiến trúc lạ mắt làm cho ai đến đây cũng có cảm giác muốn tìm hiểu nó hơn. Tôi tìm đọc những tài liệu về ngôi chùa này và thấy thích thú về nó. Chính vì vậy mà tôi cùng với một huynh đệ nữa đã trở lại nơi đây vào ngày 26 tháng 11 năm 2010 để tìm hiểu về “Ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam có phong cách kiến trúc kết hợp giữa phương Đông và phương Tây” này. Cùng với sự giúp đỡ tận tình của quý Thầy nơi đây cùng với sự tham khảo của những bài viết trên các trang báo mạng tôi cũng đã hoàn thành bài viết này. Do thiếu kiến thức về kiến trúc cũng như sự am hiểu về lịch sử nên không tránh khỏi những sơ sót trong bài viết này. Với vốn kiến thức ít ỏi của mình, tôi cũng mạo muội viết về ngôi chùa này với đề tài “Vĩnh Tràng – ngôi chùa nổi tiếng miền Tây Nam bộ” thông qua những lời hướng dẫn của quý thầy trong chùa cùng những tài liệu khác để làm nổi bật vẻ đẹp của ngôi chùa nổi tiếng này.
NỘI DUNG
1. TỔNG QUÁT VỀ NGÔI CHÙA VĨNH TRÀNG
1.1. Vị trí địa lý
Chùa Vĩnh Tràng là một trong những ngôi chùa cổ ở miền Tây Nam bộ. Chùa nằm về hướng Đông Bắc của thành phố Mỹ Tho, ven tỉnh lộ 22, được tọa lạc trên một mảnh vườn cây ăn trái rộng gần 2 ha, đường Nguyễn Trung Trực, thuộc địa phận ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Điện thoại liên lạc: 0733873427 – 0733876341.
Chùa thuộc hệ phái Bắc Tông, là ngôi tổ đình của dòng Lâm Tế - Trí Huệ với số lượng Tăng chúng tu học hiện nay là chín vị dưới sự hướng dẫn của thượng tọa Thích Huệ Minh trưởng ban Trị sự tỉnh Tiền Giang và cũng là người đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban Quản trị chùa.
Chùa được Nhà nước công nhận di tích văn hóa cấp quốc gia từ ngày 06 tháng 12 năm 1989. Hiện là nơi đặt văn phòng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo và chùa đã trở thành điểm du lịch không thể bỏ qua của du khách khi đến tham quan thành phố Mỹ Tho.
1.2. Lịch sử hình thành và xây dựng
Ban đầu chùa Vĩnh Trường mới chỉ là một cái am nhỏ, mái lá vách đất, quang cảnh hoang vu, do ông bà Huyện Bùi Công Đạt làm quan dưới triều vua Minh Mạng (1820-1840) tạo dựng. Sau khi hưu trí, ông bà về đây cất am để tu hành nên nhân dân trong vùng quen gọi là chùa ông Huyện. Sau đó, ông bà mời Đại sư Huệ Đăng về trụ trì chùa và dạy chữ nghĩa cho con. Năm 1849, hòa thượng Huệ Đăng ở chùa Giác Lâm (Gia Định) về trụ trì và khởi tạo xây chùa, ngoài việc lo kinh kệ, ngài Huệ Đăng còn gánh đất đắp nền cùng với nhiều đạo hữu đến giúp. Ông đặt tên là chùa Vĩnh Trường với ngụ ý ước cho chùa được:
永久對天河
長存齊天地
"Vĩnh cửu đối sơn hà,
trường tồn tề thiên địa".
Qua thời gian người dân vùng lân cận đến nay vẫn quen gọi là chùa “Vĩnh Tràng”. Nhà thơ Xuân Thủy sau một lần đến thăm đã tặng chùa bốn câu thơ sau:
"Đức Phật giàu tình thương
Nên chùa tên Vĩnh Tràng
Nhà sư vốn yêu nước
Lòng như dòng Tiền Giang".

1.3. Các đời truyền thừa
Ngài Huệ Đăng được xem là vị tổ khai sơn ngôi chùa này. Năm 1864, ngài mất trong lúc công việc chưa hoàn tất, vì ngài không có đệ tử kế truyền nên bổn đạo thỉnh ông Minh Đề làm trụ trì.
Năm 1878, hòa thượng Minh Đề tịch hòa thượng Quản Ân thay thế được một thời gian rồi đi du học ở Thái Lan. Bổn đạo thỉnh sư Minh Truyện về chủ trì được một thời gian rồi cũng chuyển đi nơi khác. Vì chùa không có người chủ trì nên phật tử trong bổn đạo họp nhau lại bàn bạc và nhất trí đến hội ý hòa thượng Tổ Từ Trung, hoà thượng Trung (chùa Bửu Lâm, Mỹ Tho) đến thỉnh hòa thượng Trà Chánh Hậu (hiệu là Quảng Ân) về trụ trì, tiếp tục công việc của hòa thượng Huệ Đăng.
Từ năm 1907 đến năm 1911, hòa thượng Trà Chánh Hậu đã khuyến giáo tín đồ góp công của đại tùng tu lại ngôi chùa, ông mời điêu khắc gia Tài Công Nguyên đảm nhận phần trang trí và tạc các tượng thờ trong chùa. Tầng một của ngôi chùa được xây dựng với sự pha hòa cả nét kiến trúc Đông Tây đã tạo cho ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất so với các ngôi chùa khác của Việt Nam.
Hòa thượng Lê Ngọc Xuyên, pháp danh Tục Thông, tự Tâm Liễu, pháp hiệu An Lạc là đệ tử kế thế của hòa thượng Quảng Ân lên thay. Đến năm 1930, ông lo chỉnh trang nóc chùa và mặt dựng bốn phía chùa. Cuối 1930, chùa được hoàn tất thêm ba gian và tầng hai của gian chánh điện. Năm 1933, ông cho xây hai cổng Tam quan và xây rào xung quanh. Ngày 22-6-1939 hòa thượng qua đời, thọ 67 tuổi.
Thượng tọa Thích Trí Long là đệ tử được hòa thượng Lê Ngọc Xuyên di chúc làm trụ trì nhưng vì Thích Trí Long mới 19 tuổi nên thầy yết ma Tục Chơn tự Tâm Giác, là anh ruột của hòa thượng Tục Thông thay quyền trụ trì và làm vị sư bảo hộ. Ngày 25-3-1954 thầy Yết ma Tục Chơn mất (thọ 94 tuổi).
Hoà thượng Trí Long, đời 41, trụ trì chùa từ năm 1955 đến năm 1987 thì viên tịch. Do không có người thừa kế nên nhà nước giao cho Tỉnh hội Phật giáo quản lý và đặt văn phòng làm việc của Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Tiền Giang. Từ năm 1987, Tỉnh hội bầu Ban trụ trì theo nhiệm kỳ. Các vị trụ trì qua các nhiệm kỳ là: hoà thượng Thích Bửu Thông, thượng tọa Thích Hoằng Từ, hoà thượng Thích Hoằng Thông, hoà thượng Thích Nhựt Long và hiện nay là thượng tọa Thích Huệ Minh.
1.4. Kiến trúc
Chùa Vĩnh Tràng được xây cất do công trình kiến trúc của nhiều người, trong nhiều năm, là một chùa lớn, được kiến trúc khá tinh vi, đa dạng theo lối kiến trúc tổng hợp Á - Âu (Pháp, La Mã, Thái, Miên, Chàm). Tuy nhiên, chùa vẫn mang đậm nét lối kiến trúc điêu khắc truyền thống Việt Nam. Chùa được kiến trúc theo dạng chữ Quốc, gồm bốn gian nối tiếp nhau (tiền đường, chánh điện, nhà tổ và nhà hậu) rộng 14.000 m², dài 70 m, rộng 20 m, xây bằng xi măng và gỗ quý, nền đúc cao 1m, xung quanh xây tường vững chắc.
Trước chùa có hai cổng tam quan kiểu võ khá quy mô, tráng lệ, xây theo kiểu cổ lầu, do những nghệ nhân xứ Huế thực hiện vào năm 1933, với sự tài trợ về kinh phí của hai ông Huỳnh Trí Phú và Lý Văn Quang. Nét độc đáo của cổng tam quan này thể hiện ở nghệ thuật ghép mảnh sành sứ có giá trị (sứ Trung Hoa, Việt Nam) minh họa lịch sử nhà Phật, in hình long, lân, quy, phượng, canh, mục, ngư, tiều, mấy câu đối cũng cẩn bằng miếng chai nổi mầu sắc óng ánh trông rất đẹp. Trong cổ lầu đặt tượng chân dung hoà thượng Chánh Hậu và hoà thượng Minh Đàng do nhà điêu khắc Nguyễn Phi Hoanh thực hiện. Tháng 10 năm 2005 (tức tháng 9 năm Ất Dậu DL.2549) Ban trị sự Phật giáo tỉnh Tiền Giang quyết định thay đổi hai bức tượng này và đưa vào nhà Tổ, thay vào hai pho tượng Phật. Tượng Phật Di Đà thay thế tượng Hòa thượng Chánh Hậu, tượng Phật Thích Ca thay thế tượng Hòa thượng Minh Đàn. Trên cổng phía đông có bức hoành phi được điêu khắc tinh xảo với bốn chữ “Tịnh độ huyền môn” và hai câu đối ghi nhớ công lao ngài Chánh Hậu: “Chánh đạo vĩnh khai truyền thế thế hòa quang triêm pháp vũ. Hậu ân trường phổ độ niên niên thượng ngưỡng nhuận từ phong.”. Người viết tạm dịch là: Chánh đạo vĩnh cữu khai truyền đời đời ngời sáng ngấm mưa pháp. Ân dày trường tồn phổ độ năm năm ngữa mặt thắm gió từ. Cổng phía tây cũng có bức hoành phi được cẩn sành sứ với bốn chữ “Phương tiện pháp môn” và hai câu đối: “An tâm hòa bỉnh công tâm tự tổ thiệu tông tăng vĩnh hữu. Lạc đạo thượng hành chơn đạo độ sanh tế chúng ích trường lưu.” Trên cổ lầu còn nhiều câu đối khác cũng được trạm trổ công phu. Cổng giữa của tam quan làm bằng sắt theo kiểu Pháp tạo nên một kiến trúc đa màu sắc và nhiều góc cạnh. Khác với các ngôi chùa khác ở Việt Nam cổng tam quan giữa thường lớn và đồ sộ hơn hai cổng bên nhưng cổng này rất nhỏ và chỉ mở vào những dịp lễ lớn của chùa và giáo hội nên ít được chú ý đến.
Qua thời gian, hai cổng chùa nặng hàng chục tấn đã bị lún và nghiêng về phía bên trong hơn 150, có nguy cơ ngã đổ. Năm 2004, Ban trị sự chùa Vĩnh Tràng đã mời “thần đèn” Nguyễn Thành Lũy ở huyện Chợ Mới (tỉnh An Giang) đến "cứu" cổng chùa. Công trình gia cố cổng khởi công ngày 11-03-2004 và hoàn thành vào cuối năm 2004.
Điều làm cho tôi ngạc nhiên nhất khi đến đây là kiến trúc của ngôi chùa này. Nó không giống như những ngôi chùa Việt Nam với mái uốn cong với những trạm khắc long phụng như ta thường gặp mà mang một nét rất riêng biệt. Mới nhìn từ xa tôi cứ ngỡ đây là một cái đền giống Ăng-co-vát của Cam-pu-chia, nhưng trông nó cũng giống một ngôi nhà cổ của Pháp hoặc một lâu dài của Ý nào đó. Theo lời truyền tụng của người dân đại phương thì hòa thượng Minh Đàng và ông Huỳnh Trí Phú đã đến đất nước Chùa Tháp nên đã tiếp thu được nét độc đáo ở nơi đây mà thiết kế xây dựng chùa Vĩnh Tràng. Chính vì vậy mà mặt tiền chùa Vĩnh Tràng lại mang một kiến trúc kết hợp giữa phương Đông và phương Tây. Ở đây có những hoa văn theo kiểu thời Phục Hưng, vòm cửa theo kiểu La Mã, bông sắt của Pháp, gạch men của Nhật Bản... chữ Hán viết theo lối chữ triện cổ kính, còn chữ quốc ngữ lại viết theo lối chữ Gô-tích.
Phía sau chánh điện là nhà tổ được nối với hàng lang đông và tây liền nhau theo kiểu Trung Quốc nhưng vẫn giữ được phong cách của Việt Nam. Giữa không gian trống của phía sau chánh điện và nhà tổ còn có một hòn non bộ phác họa cảnh nứi non chùa tháp, thiên nhiên hữu tình mang đậm bản sắc Việt Nam. Điều này chứng tỏ ông cha xưa của ta thích sống gần gũi với thiên nhiên nên đã được thiên nhiên vào tận nhà. Từ phía trước nhà tổ nhìn về phía sau chánh điện ta sẽ thấy một lối kiến trúc mang đậm nét Rôma châu Âu với những cột uy nghi với những vòm cong và hoa văn của Pháp đầy màu sắc sặc sở với chất liệu bằng bê tông nhưng vẫn nhẹ nhàng uyển chuyển tạo nên một kiến trúc đa dạng.
Nhà hậu tổ là nơi thờ chư vị tiền bối và cũng là nơi trai đường, phòng tiếp khách và nhà Tăng chúng ở hai bên. Có kiến trúc cổ Việt Nam với cột kèo bằng gỗ và mái ngói. Nơi đây có nhiều bàn thờ Phật, Tổ, hương cốt. Trên nhà Tăng có treo thanh quy và những lời giáo huấn của các đại sư.
Giảng đường Huệ Đăng. Ảnh: Pháp Như
Mặt sau nhà hậu tổ và mặt trước của nhà tịnh trù lại có kiến trúc mái ngói bằng gạch của những ngôi nhà cổ Việt Nam nhưng với vòm cong mang đậm nét kiến trúc của Pháp. Đây là nét độc đáo làm cho ngôi chùa dù mang kiến trúc kết hợp Đông Tây nhưng vẫn rất Việt Nam. Sau cổng tam quan là một khoảng sân rộng trồng
hoa kiểng, ao sen, hồ nước nhỏ. Giữa sân có tượng Phật Thích Ca tham thiền dưới cội bồ đề được xây dựng vào năm 1995, lúc đầu tượng màu trắng nhưng đến năm 2009 thì được đắp lại màu vàng. Nhà che của Phật bên dưới cây bồ đề được xây dựng vào năm 2009 với chất liệu bê tông. Phía bên phải công phía tây còn có tượng đài Bồ tát Quan Thế Âm lộ thiên. Đi thẳng vào còn có quầy hàng lưu niệm. Ở đây có các mặt hàng làm từ chất liệu dừa mang đậm phong cách của miền Tây Nam bộ. Trong khuôn viên phía trái ngôi chánh điện còn có hai vườn tháp với nhiều ngôi tháp cổ của các vị hoà thượng tiền bối.
Kế tiếp là hòn non bộ trước vườn tháp tạo nên một không cảnh hài hòa giữa thiên nhân và nhân tạo. Phía sau bên phải chánh điện có phòng phát hành kinh sách với nhiều kinh sách và vật phẩm của Phật giáo rất đa dạng về hình thức và phong phú về nội dung . Cách nhau một hồ nước nhỏ là giảng đường Huệ Đăng bên phải chánh điện là giảng đường Chánh Hậu dùng để thuyết giảng pháp khi an cư kiết hạ và tổ chức đại giới đàn của tỉnh hội.
1.5. Cách bài trí các điện thờ trong chánh điện
Chùa còn bảo tồn nhiều tượng cổ, hơn 60 tượng phật đúc bằng gỗ, đồng, đất nung, xi măng, đa số tượng bằng gỗ, tất cả được thếp vàng óng ánh và được tạo vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Chánh điện được bài trí trang nghiêm, với vẻ trầm mặc quyện tỏa khói hương tạo nên sự thiêng liêng mầu nhiệm. Trên bàn thờ có nhiều pho tượng như Phật Trung Tôn được làm bằng gỗ mít (có người cho rằng đó là tượng Đức Phật Thích Ca nhưng trên hòa quang lại có ghi dòng chữ Nam mô A Di Đà Phật) được ngự giữa chánh điện, đây là tượng Phật chính của ngôi chùa, hai bên Phật Trung Tôn còn có tượng hai vị Hộ Pháp như để bảo vệ chánh pháp. Lớp dưới có bộ tượng Di Đà Tam tôn (Đức Phật A Di Đà cao 98cm, Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí cao 93cm ), đây là bộ tượng cổ nhất ở chùa được đức bằng đồng vào giữa thế kỷ XIX. Tiếc rằng tượng Quan Âm đã bị thất lạc từ lâu. Sau này, hoà thượng Chánh Hậu phải thuê thợ làm tượng khác bằng gỗ thế vào cho đủ bộ. Lớp dưới có tượng Phật đản sanh, tượng Di Lặc và tượng Thất Phật Dược Sư được tôn trí ở án giữa.
Bên trái án giữa điện Phật còn có tượng chân dung hoà thượng Chánh Hậu và bên phải là tượng chân dung của hoà thượng Minh Đàng như đang đứng chầu Phật. Phía bên trái điện Phật là án thờ ngài Tiêu Diện cầm cờ đối xứng với ngài Tiêu Diện là án thờ Hộ Pháp tay phải chống chày kim cang.
Điều đáng chú ý nhất nhất là bộ tượng Thập Bát La Hán với sự bày trí như sau: chín vị La Hán bên trái đối xứng với chín vị La Hán bên phải được chia thành sáu án thờ, mỗi bên ba án: án thứ nhất có hai vị, án thứ hai có ba vị và án thứ tư có bốn vị được đặt hai bên điện Phật. Đây là những tác phẩm chạm khắc bằng gỗ độc đáo, mà một số nghệ nhân ở Nam bộ đã tạo vào năm 1907, mỗi tượng cao khoảng 0,8 m, bề ngang gối 0,58 m được, mỗi vị La Hán có bửu bối riêng của mình tượng trưng cho các giác quan mà giáo lý gọi là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; ở ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Các tượng La Hán này được tạo hình cân đối, sinh động, cưỡi trên những con thú như: trâu, bò, ngựa, lạc đà, hà mã, tê giác…
Phía bên trái góc cuối chánh điện còn có một án thờ mẫu với hai người hầu, đây giống phong cách thờ của miền Bắc Việt Nam. Ở đây Thập Điện Minh Vương không bày trí hai bên tả hữu mỗi bên năm vị của chánh điện như các chùa thường gặp mà bố trí ba án khác nhau.
Phía trái chánh điện về phía sau kế bên trái án mẫu có một án thờ năm vị Minh Vương. Phía bên phải chánh điện về phía sau kế bên phải án thờ Ngọc Hoàng có án thờ ba vị Minh Vương. Tượng Ngọc Hoàng ơ đây cũng bằng đồng to bằng người thật, không có Nam Tào, Bắc Đẩu cầm sổ sinh tử đứng hầu hai bên như các chùa khác; thay vào chỗ đó là Ông Thiện và Ông Ác.
Án thờ hậu tổ sau điện Phật là án thờ Đạt Ma sư tổ, bồ tát Quán Thế Âm và hai vị Minh Vương, tượng nữa. Bên cạnh đó nổi bậc nhất là tượng Địa Tạng cưỡi đề thính, đây là pho tượng rất độc đáo cùng thời với bộ tượng La Hán và cũng được chạm khắc công phu.
Phía sau chánh điện có có án thờ ông Bùi Công Đạt cùng gia quyến.
Nhà tổ phía trước có năm bàn thờ: tính từ trái sang có bàn thờ Quan Âm, bàn thờ Thế Chí, chính giữa thờ Bồ tát Chuẩn Đề và Bồ tát Địa Tạng, tiếp đến là bàn thờ Bồ tát Quan Âm và bàn thờ Bồ Tát Quan Âm cùng đồng nam đồng nữ.
Phía trong nhà tổ là án thờ chư vị Hòa thượng tiền bối khai sơn tạo tự với nhiều bài vị. Trên là tượng của hòa thượng Huệ Đăng, bên trái là tượng của Hòa thượng Chánh Hậu và bên phải là tượng của ngài Minh Đàng. Phía bên trái án thờ chư vị hòa thượng khai sơn là án thờ Ưu Bà Di và bên phải là án thờ Ưu Bà Tắc.
Phía sau án thờ tổ là Bát Nhã đường thờ Giám Trai Bồ tát và một số vị Bồ tát khác. Bên trái Bát Nhã đường thờ cốt của người nữ và bên trái thờ cốt của người nam.
1.6. Biển, bảng, hoành phi, câu đối
Bước vào từng gian nhà, ta sẽ thấy toát lên một màu vàng rực của tượng Phật, hoành phi, câu đối, bao lam được chạm khắc tinh xảo mang dáng vẻ rất cổ kính thời vua chúa Việt Nam. Đáng chú ý hơn cả là những đôi long trụ trong gian chính điện, đó là những cây cột tròn to, bằng gỗ quý được chạm khắc tinh xảo uốn lượn tạo nên vẻ sống động cho ngôi chùa.
Ngoài ra trong chùa hiện nay còn hơn 20 bức tranh sơn thủy rất giá trị. Những bức tranh này được cư sĩ Long Giang vẽ vào năm 1904, tuy ảnh hưởng tranh vẽ của Trung Hoa nhưng lại mang đậm nét dân gian Việt Nam với những hình ảnh "Mai, lan, cúc, trúc" tạo nên phong cảnh Việt Nam rất hữu tình. Cho đến bây giờ những tác phẩm đó được giữ nguyên vẹn dù qua biết bao nhiêu thay đổi của thời gian của lịch sử có thay thăng trầm đó là do sự kế thừa gìn giữ của chư Tăng và bổn đạo ở đây.
Điều đáng chú ý là những bức hoành phi, câu đối trong chùa được điêu khắc chữ nổi thếp vàng. Tiền đường có bột bức hoành phi chữ "Hoàng kim bửu điện" được khắc từ 1851 đến nay vẫn còn khá đẹp và hai cặp câu đối. Trong chánh điện có bốn bức hoành phi, một bức được chạm khắc bằng gỗ với ba chữ “Vĩnh Trường tự”, được đặt ở giữa chánh điện; một bức được chạm khắc bằng sơn mài cẩn xà cừ ghi: “Đại hùng bữu điện” hai bức còn lại được chạm khắc bằng gỗ ghi: “Pháp luân thường chuyển”, “Thường đạo hà xương” và bốn cặp câu đối. Trên điện Phật có một bộ bao lam trạm trổ công phu và có ghi “Vô lượng thọ” ở phía bên trái và “Vô lượng quang” phía bên phải. Sau chánh điện cũng có một bức hoành phi ghi “Vĩnh Trường tự” một bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia do bộ văn hóa cấp và ba cặp câu đối. Hành lang phía tây sau chánh điện nối liền nhà tổ cũng có hai cặp câu đối và hành lang phía đông cũng có hai cặp câu đối.
Nhà tổ mặt trước có năm biển ghi nhận công đức của thiện nam tín nữ góp của xây dựng chùa được ghi bằng bằng chữ Hán với chất liệu gỗ sơn son và còn tôn trí mười cặp câu đối theo ba hàng: hành thứ nhất có bốn cặp, hàng thứ hai có bốn cặp và hàng thứ ba có hai cặp. Nhà tổ phía sau có bức hoành phi ghi “Bát Nhã đường”, một cặp câu đối và những hoa văn chạm khắc rồng quanh cột rất sắc xảo. Trong khuôn viên chùa còn có nhiều cây cảnh, hồ nước và hòn non bộ tô điểm thêm cảnh đẹp nơi đây và tạo nên một phong cảnh trầm mặc yên tỉnh làm cho du khách có cảm giác thư thái, nhẹ nhàng mỗi khi đến đây chiếm bái.
1.7. Tháp mộ của các vị trụ trì và chư Tăng Ni đã qua đời
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử những ngôi tháp cổ ở đây cũng in đậm dấu thời gian tạo nên vẻ trầm mặc. Phải nói rằng vườn tháp của chùa Vĩnh Tràng cũng khá đẹp với nét cổ kính của nó. Trong chùa có hai vườn tháp với những kiến trúc mộ tháp riêng biệt nhưng vẫn hài hòa với không gian của chùa.
Vườn tháp phía bên phải trước chánh điện trước có ba ngôi tháp. Tháp cao nhất của Hòa thượng Huệ Đăng, kế bên là tháp của Hòa thượng Pháp Tràng và kế tiếp nữa là tháp của Hòa thượng Trí Thanh. Mỗi tháp mang một dáng vẻ và lối kiến trúc khác nhau những vẫn tạo nên sự hài hòa khi đứng cạnh nhau đó cũng là nét riêng của đệ tử Phật dù có khác biệt đi nữa vẫn đồng một thể là con nhà Phật. Vườn tháp phía trái cuối hàng rào chùa là một vườn tháp rất đẹp mang đậm nét cổ kính. Phía trước ngôi mộ của ông bà Huyện Bùi Công Đạt là người đã tạo lập am tu hành ở đây là tháp của Hòa thượng Minh Đàng. Ngôi tháp của Hòa thượng Chánh Hậu, bằng đá trắng được xây dựng gần giảng đường Huệ Đăng. Bên cạnh những ngôi tháp nhỏ của gia quyến ông Bùi Công Đạt và con cháu của Hòa thượng Huệ Đăng còn có một số tháp của chư Tăng và ngôi tháp của một vị Tỳ kheo Ni. Nhìn chung vườn tháp ở đây có một vẻ đẹp trầm mặc tạo nên một không gian thiêng liêng nơi chốn giá làm này.
1.8. Các tự khí, pháp khí trong chùa
Hiện vật còn lại trong chùa này phải kể đến là Đại Hồng Chung mang tên Pháp Bảo Chuông cao 120cm, nặng khoảng 150 kg được đúc giữa tháng 5 năm 1854, dưới thời vua Tự Đức, trên đó khắc chữ "Vĩnh Trường Tự". Hiện nay Pháp Bảo Chuông không sử dụng được, bị hỏng do nằm lâu dưới nước sau thời gian thất lạc. Rất tiếc người viết chưa tận mắt nhìn thấy đại hồng chung và chưa chụp lại hình ảnh.
Đại hồng chung mới của chùa đúc vào năm 1992, được đúc tại Huế chuyển vào đầy, cao 1m2, năng 500 kg, được đặt ở hậu đường phía bên phải sau chánh điện. Phía bên trái đối xứng với đại hồng chung là đại cổ pháp có khắc bốn chữ: “Vĩnh Trường pháp cổ” được tạo tác vào tháng ba năm Giáp Tuất với màu son đỏ khá đẹp.
Điểm nổi bật ở ngôi chùa này còn lưu giữ nhiều bao lam với những chạm trổ rất tinh xảo. Có bảy bộ bao lam chính cùng nhiều bao lam phụ nhưng đặc sắc nhất là bộ bao lam bát tiên cưỡi thú được chạm trổ tinh xảo. Mỗi vị có một tư thế và cưỡi trên một con thú và cầm bữu bối khác nhau. Bên trái có bốn vị: tiểu đồng đứng trên lưng rùa với tay quẩy chiếc giỏ tre; một tiên sinh cưỡi ngựa với tay cầm ống bút, một thư sinh cưỡi hổ thổi sáo, một ông lão cưỡi đề thính vuốt râu. Bên phải có bốn vị: một vị trung niên cưỡi trâu tay cầm bình hồ lô, tiên nữ cưỡi hạc cầm hoa sen, một tiên sinh cưỡi lộc với tay vuốt râu và một ông lão kỳ lân với phất trần trên tay. Trên bao lam bát tiên còn có thần mặt trời cưỡi rồng và thần mặt trăng cưỡi phụng được chạm trổ rất công phu, do các nghệ nhân tại địa phương thực hiện vào khoảng năm 1907-1908.
Bằng những vật liệu gỗ, những nhà kiến trúc, nhà điêu khắc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã chạm khắc những hình tượng mang mầu sắc tôn giáo huyền ảo, thoáng đượm vẻ vương quyền, qua đó ta thấy được những công trình điêu khắc của người xưa - qua những hình tượng sống động ấy ta thấy rõ cuộc sống vui tươi và ý chí vươn lên của dân tộc Việt Nam - một dân tộc tự nhận mình là dòng dõi con rồng cháu tiên thể hiện qua chạm khắc hình tượng tứ linh.
1.9.Các ngày lễ chung của Phật giáo và lễ riêng của chùa
Lễ hội lớn nhất ở đây phải kể đến là lễ Phật Đản được tổ chứ hằng năm được tổ chức trong vòng một tuần từ ngày mồng 8 đến ngày 15 tháng 4 âm lịch. Lễ chính được diễn ra tại lễ đài Phật Di Lặc từ khi công viên này khánh thành và đưa vào hoạt động.
Ngày rằm tháng bảy hằng năm nơi đây tổ chức cúng trai đàn cầu siêu bạc độ cho các vong linh, những chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, tổ chức đại lễ dâng y có thỉnh chư Tăng Ni trong và ngoài tỉnh đến dự.
Vào những ngày rằm tháng giêng và tháng mười âm lịch bà con và Phật tử đến đây chiêm bái rất đông. Từ khi có công viên Vĩnh Tràng với tôn tượng Đức Phật A Di Đà lộ thiên cao nhất Việt Nam thì nơi đây là nơi diễn ra lễ hội vía Đức Phật A Di Đà vào ngày 17 tháng 11 âm lịch hằng năm của chư Tăng Ni Phật tử và bà con nơi đây.
Bên cạnh đó chùa còn có những ngày giỗ kỵ lớn như ngày 18 tháng giêng âm lịch hằng năm là giỗ của Hòa thượng Huệ Đăng, người đã khia sơn ngôi chùa này. Ngày 17 tháng 3 âm lịch là giỗ của Hòa thượng Pháp Tràng. Ngày mồng 1 tháng 5 âm lịch là giỗ của ngài Trí Long. Ngày 21 tháng 6 âm lịch là ngày giỗ hòa thượng Minh Đàng. Ngày 30 tháng 7 âm lịch là ngày giỗ Hòa thượng Chánh Hậu.
Đây cũng là nơi tổ chức an cư kiết hạ cho chư Tăng của tỉnh hội Phật giáo Tiền Giang hằng năm cho hơn trăm vị. Chùa được giữ hai kỷ lục của Việt Nam là “Ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam có phong cách kiến trúc kết hợp giữa phương Đông và phương Tây”, thời điểm xác lập kỷ lục là ngày 31 tháng 5 năm 2007 do Tổng giám đốc Vietbooks Lê Trần Trường An ký và kỷ lục thứ hai là: “Tượng Phật A Di Đà lộ thiên cao nhất Việt Nam” thời điểm xác lập kỷ lục vào năm 2007.
1.10. Tượng Phật A Di Đà trong công viên Vĩnh Tràng
Vào ngày 14.1.2008 (nhằm ngày 8 tháng 12 lễ thành đạo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni), ngôi chùa cổ Vĩnh Tràng nổi tiếng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đã khánh thành tượng Phật Di Đà cao 18m và công viên chùa Vĩnh Tràng. Dự án được khởi công xây dựng vào 7/3/2007 (nhằm ngày 19 tháng giêng Đinh Hợi), hơn một năm mới hoàn thành một cách mỹ mãn do nhóm thợ và họa sĩ kiến trúc sư Thụy Lam thiết kế với sự khởi xướng của Thượng tọa Thích Huệ Minh.
Sau khi thành phố Mỹ Tho được nâng cấp lên đô thị loại hai, với vẻ mỹ quan của ngôi chùa cổ nổi tiếng hơn 150 năm không thể để cảnh nhếch nhác với các cảnh lùm cây che khuất và mồ mả trước chùa nên Thượng tọa Thích Huệ Minh đã đề xuất và đứng ra chịu trách nhiệm với Ban trị sự tỉnh tạo lập một công viên trước chùa và chọn tượng Đức Phật A Di Đà để tôn trí nơi đây. Vì Đức Phật A Di Đà tượng trưng cho cõi Cực Lạc an vui để làm vơi bớt sự mệt nhọc của người dân sau những ngày lao động cực khổ không có thời gian đến chùa. Việc tạo dựng công viên A Di Đà trước chùa đã đáp ứng một phần nào về tín ngưỡng tâm linh của người dân. Có người đi làm qua công viên từ xa thấy tượng Phật cũng xá lễ khi không có thời gian đi chùa, có người muốn nghỉ ngơi thư giản sau những ngày mệt nhọc cũng vào ngồi dưới ghế đá dưới chân Đức Phật để thầm cầu nguyện cho cuộc sống bình yên. Pho tượng Phật A Di Đà cao tính từ chân đến đỉnh cao 18m, bệ cao 7m, nặng 150 tấn với chất liệu là bê tông cốt thép nguyên khối. Dù chất liệu bằng bê tông nhưng với màu sơn trắng pho tượng vẫn giữ được vẻ uy nghiêm và từ ái của Đức Phật. Pho tượng này đã được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công nhận là tượng Phật A Di Đà lộ thiên cao nhất Việt Nam. Tượng Phật A Di Đà lộ thiên chùa chùa Vĩnh Tràng cao và bề thế hơn so với tượng Phật A Di Đà lộ thiên tại chùa Long Khánh (cao 17m và đứng trên bệ cao 5m) trên đường Trần Cao Vân, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Đặc biệt hơn nữa là tượng được đặt trong một công viên mà người dân ở đây hay gọi là “Công viên Phật”
Công viên của chùa Vĩnh Tràng có hình tam giác được xây dựng trên diện tích 5.000m2, với các hạng mục như hệ thống hòn non bộ, hệ thống chiếu sáng, cây cảnh, ghế đá …Công trình có tổng kinh phí hơn 4,1 tỷ đồng với sự ủng hộ của chư Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước cùng sự hộ trì của người dân địa phương đã tạo nên một cảnh quan tôn nghiêm nơi này.
1.11. Tôn trí tượng Phật Di Lặc trong khuôn viên chùa Vĩnh Tràng
Vào ngày 22 tháng giêng năm 2010, chùa Vĩnh Tràng đã long trọng làm lễ khánh thành pho tượng Đức Phật Di Lặc với sự tham dự của chư tôn đức Tăng Ni, các cấp chính quyền, Phật tử và bà con gần xa. Tượng cao 20m, có chiều dài 27m, chiều rộng 18m, tổng trọng lượng nặng 250 tấn, được tạo hình ở tư thế an tọa rất gần gũi cuộc sống với nụ cười an nhiên và chiếc bụng to đặc trưng của ngài Di Lặc. Tượng được đặt trên một công trình giữa công viên trong tổng diện tích 5.000m2, được thi công trong khoảng thời gian 12 tháng bằng chất liệu bê tông cốt thép do nhà điêu khắc Thụy Lam thiết kế và được sự tham khảo, hướng dẫn của thượng tọa Thích Huệ Minh.
Công trình phía dưới tượng là khoảng rổng được bố trí một tầng triệt và một tầng lầu. Tầng triệt gồm phòng họp của Thường trực Ban trị sự tỉnh Tiền Giang, 4 phòng nghĩ tiện nghi dành cho khách Tăng từ xa đến chùa. Tầng lầu gồm: Bố tát đường cũng là chánh điện, là nơi dành cho chư Tăng của tỉnh Bố tát tụng giới vào những ngày 14 và 30 mỗi tháng. Phía trước công trình của tượng Phật Di Lặc là một quảng trường rộng với lễ đài là nơi diễn ra những buổi lễ lớn của Phật giáo cũng như của Ban trị sự Phật giáo tỉnh. Ngoài ra công trình còn những hạng mục hàng rào quanh công viên, hệ thống hồ nước phun, hệ thống thoát nước, con đường mới dẫn vào tôn tượng đức Di Lặc, hệ thống điện và đèn chiếu sáng… tổng chi phí trên 8 tỷ đồng với sự ủng hộ tịnh tài của chư tôn đức Tăng Ni, sự cúng dường của Phật tử cùng một số ân nhân cho Ban quản trị mượn dài hạn công trình mới được hoàn mãn. Đây là công trình của Giáo hội Phật giáo tỉnh Tiền Giang lập thành tích chào mừng kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Việc khánh thành tượng Phật Di Lặc đã đáp ứng nhu cầu tâm linh tín ngưỡng của Tăng Ni, Phật tử và bà con trong vùng đồng thời tạo nên cảnh quan tôn nghiêm góp phần tạo nên điểm du lịch hấp dẫn cuốn hút du khách trong và ngoài nước.
2. HOẠT ĐỘNG CỦA CHÙA VĨNH TRÀNG
2.1. Tu học
Như trên đã nói chùa theo hệ phái Bắc tông nên giờ tu học giống như các chùa Bắc tông khác. Ở đây cũng trì tụng Lăng Nghiêm vào buổi khuya, cúng ngọ, quả đường, công phu chiều cúng thí thực và Tịnh độ vào buổi tối. Buổi mỗi tối Phật tử đến tụng khá đông. Tăng chúng có nhiều vị học Trung cấp Phật học Tiền Giang, có vị đang là Tăng sinh học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Một số vị ở chùa làm công tác Phật sự và cho giáo hội.
2.2. Văn hóa, giáo dục
Phòng phát hành kinh sách cua chùa có nhiều kinh sách và văn hóa phẩm của Phật giáo như băng giảng, kinh nhạc, áo tràng, chuổi hạt, pháp khí… nhằm đáp ứng nhu cầu tu học cho Tăng Ni và Phật tử trong thành phố và các vùng lân cận. Vì nơi điểm tham quan du lịch của du khách trong nước và nước ngoài nên phòng phát hành kinh sách Phật giáo có rất nhiều sản phẩm phong phú.
2.3. Hoằng pháp
Nơi đây là điểm an cư kiết hạ cho hơn trăm chư Tăng thuộc tỉnh hội Phật giáo Tiền Giang nên mỗi mùa an cư tỉnh hội có thỉnh nhiều vị giảng sư nổi tiếng trong tỉnh và trong nước về đây thuyết giảng cho chư Tăng và Phật tử. Nơi đây còn là nơi đặt văn phòng của Ban trị sự Phật giáo tỉnh Tiền Giang nên mỗi ngày phải giải quyết rất nhiều Phật sự của tỉnh nhà. Bố tát đường dưới tôn tượng Bồ tát Di Lạc là nơi chư Tăng của tỉnh về đây để Bố tát trong hai ngày 14 tháng 30 hàng tháng. Hai giảng đường Huệ Đăng và Chánh Hậu là nơi tổ chức đại giới đàn của tỉnh hội dành cho chư Tăng trong và ngoài tỉnh.
2.4. Kinh tế
Vấn đề thu nhập của chùa dựa vào phần công đức của thập phương đến viếng chùa là chính. Bên cạnh đó còn có một số Phật tử là đệ tử của chùa có tín tâm đến lễ bái cúng dường. Phòng phát hành kinh sách cũng tạo nên thu nhập để lo hương khói trong chùa vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh của mọi người. Bên cạnh đó quầy hàng lưu niệm cũng có tạo một phần thu nhập của chùa qua nhiều sản phẩm mang đậm bản sắc của miền quê Nam bộ giúp cho du khách vừa tham quan vừa có một món quà lưu niệm khi đến chốn này. Thật là tiếc nếu như trong các chương trình tham quan của miền Tây mà lại không ghé thăm chùa Vĩnh Tràng đó là một sự thiếu xót lớn. Đây là một nơi không thể thiếu trong chương trình du lịch về miền Tây sông nước.
2.5. Tiếp khách du lịch, khách hành hương
Giới thiệu về chùa có thầy Thích Đức Nhiên là tri khách của chùa tiếp đón khách và sẳn sàng trả lời những câu hỏi về lịch sử của chùa. Còn có một bản giới thiệu vắn tắt về lịch sử chùa để du khách tiện việc tham quan tìm hiểu. Sự tiếp đón cũng như phục vụ ở đây tốt, có quầy lưu niệm có bãi đậu xe trước chùa sau công viên Vĩnh Tràng. Trước chùa có Bồ Đề quán phục vụ các món chay cho khách thập hành hương.
Mỗi khi có đoàn tham quan nào đến chùa, nếu có báo trước thì Thượng tọa trụ trì đích thân hướng dẫn tham quan và thuyết minh về lịch sử hình thành chùa hoặc cử người trong chúng để hướng dẫn cho du khách.
Vấn đề an toàn của du khách được nâng cao hàng đầu vì có bảo vệ luôn luôn túc trực. Về hệ thống vệ sinh tương đối tốt, không có rác thải bừa bộn như những ngôi chùa du lịch khác.
Hệ thống cây xanh ở đây nhiều và mát mẻ bên cạnh những hòn non bộ và những hồ nước nhỏ tạo nên sự dễ chịu cho du khách sau khi lễ Phật và tham quan xong có thể ngồi trên những ghế đá đặt trong khuôn viên của chùa và công viên Vĩnh Tràng để nghỉ ngơi sau những ngày mệt mỏi với công việc mưu sinh.
3. ĐỀ XUẤT
Chùa là một điểm du lịch hành hương, điểm du lịch văn hóa tâm linh nổi tiếng với kiến trúc độc đáo nên cần có một website để giới thiệu về chùa và những hoạt động của chùa để mọi người được tìm hiểu và cần có email để tiện việc liên hệ. Cần tập huấn giáo dục cho những Tăng Ni và Phật tử tại chùa nắm rõ về lịch sử của chùa cũng như ý nghĩa của từng pho tượng và các chi tiết về hoa văn điêu khắc để giới thiệu đến khách du lịch hành hương mỗi khi đến chùa.
Đây là điểm đến của rất nhiều đoàn khách nước ngoài nên cần có những Tăng Ni và Phật tử ở chùa biết tiếng Anh để giới thiệu với khách làm cho họ hiểu hơn về nét độc đáo của ngôi chùa.
Chùa cần có một tờ gấp thiết kế đẹp nói về lịch sử của chùa bằng song ngữ Việt – Anh để du khách trong nước và nước ngoài có thể tham khảo. Bên cạnh đó cần có thêm một bộ bưu ảnh của chùa để quảng bá với du khách thập phương.
KẾT LUẬN
Với kiến trúc kết hợp giữa phương Đông và phương Tây, chùa Vĩnh Tràng đã tạo nên một ấn tượng khó phai trong lòng du khách. Không những độc đáo về kiến trúc mà còn tinh tế trong phong cách. Nơi đây còn lưu giữ những bộ tượng cổ đặc sắc do những nghệ nhân miền Nam tạo tác bên cạnh đó còn có rất nhiều bao lam được chạm trổ công phu mang đậm bản sắc Việt. Cùng với những công trình của các bậc tiền bối để lại bên cạnh những công trình hiện đại của chùa đã tạo nên một kiến trúc đa dạng, phong phú.
Với sự có mặt của ngôi chùa nơi đây đã đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân cũng như với cảnh trí tôn nghiêm này đã tạo điều kiện cho người dân có nơi nghỉ ngơi thư giản sau một ngày làm việc mệt nhọc.
Cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng 80km, Vĩnh Tràng được xem là ngôi chùa cổ danh tiếng và là một công trình kiến trúc đặc sắc của tỉnh Tiền Giang. Chùa đã trở thành điểm du lịch không thể bỏ qua của những du khách trong nước cũng như nước ngoài khi có dịp đến tham quan thành phố Mỹ Tho. Hơn thế nữa Vĩnh Tràng còn là nơi nghiên cứu tìm hiểu của nhiều người khi đến tham quan ngôi chùa ấn tượng này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Chùa Vĩnh Tràng, www.wikipedia.org.
2. Bảo Thiên, Công viên Phật giữa lòng thành phố, www.giacngo.vn, 04/01/2010.
3. Công Luận, Chùa Vĩnh Tràng khánh thành tượng Phật Di Lặc cao 20m, www.tiengiangtv.org, 24/01/2010.
4. Huỳnh Diệu, Tiền Giang – khánh thành công trình tượng Phật Di Lặc và công viên Vĩnh Tràng, www.giacngo.vn, 26/01/2010.
5. Lê Quang Huy, Đầu năm đi viếng chùa Vĩnh Tràng, www.phattuvietnam.net, 14/3/2009.
6. Trần Kiều Quang, Nét đẹp chùa Vĩnh Tràng, www.baohaugiang.com, 24/9/2008.
7. Sở văn hóa, thể thao và du lịch Tiền Giang, Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Vĩnh Tràng, www.blog.yume.vn.
8. Vân Trường, Một thần đèn cứu cổng chùa Vĩnh Tràng, www.vietbao.vn, 13/4/2004.
9. Vietbalo Tổng hợp, Chùa Vĩnh Tràng, www.vietbalo.vn.
10. Vietbooks, Ngôi chùa tôn trí pho tượng Phật A Di Đà cao nhất, www.kyluc.vn, 2/8/2010.







Bài và ảnh: Pháp Như

Read more...

Triết lý hư vô về kiếp người, cuộc đời trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều

Pháp Như


DẪN NHẬP
Việt Nam là một đất nước có nền văn học vô cùng phong phú và đa dạng. Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, khi thịnh vượng, lúc suy tàn, nhưng thời đại nào cũng có những nhà văn, nhà thơ uyên bác đã để lại cho đời nhiều tác phẩm hay. Nhiều người được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới như Nguyễn Trải, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh. Họ đã có những tác phẩm kiệt xuất vượt lên cả mọi thời đại. Những tác phẩm của họ để lại như những di sản tinh thần làm rạng danh dân tộc Việt Nam, với nội dung và giá trị mang tính nhân văn cũng như tính giáo dục cao. Những tác phẩm đó phản ánh hiện thực cuộc sống của một giai đoạn lịch sử nào đó mà các tác giả đã sống đã thao thức và trăn trở. Sự tiếp thu những giá trị văn hóa – xã hội cũng như lịch sử và tôn giáo trong xã hội Việt Nam đã được đưa vào các tác phẩm của các tác giả ấy một cách tài tình mà khi nhắc tới người đọc phải nghiêng mình nể phục.
Trong thế kỷ XVIII cũng có một tác giả nỗi bật với tác phẩm được xem là một tuyệt tác của thi ca chữ Nôm đó là Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Không giống như tác phẩm chữ Nôm của Nguyễn Du khi viết nên Truyện Kiều phải lấy ý tưởng từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc, Đoàn Thị Điểm với Chinh phụ ngâm khúc được dịch lại của Đặng Trần Côn mà Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều là một tác phẩm rất Việt Nam không dựa vào đâu cả. Nó phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII với biết bao bất công và bế tắc. Sự bất công được thể hiện qua khát vọng tự do được yêu thương được sống như bao người phụ nữ và sự bế tắc được thể hiện qua ước muốn được thoát ra khỏi cái “lồng son” của cung cấm để sống với cảnh đời “cục mịch nhà quê” của người cung nữ mà không được. Tác giả đã thông qua lời của người cung nữ nói lên tâm trạng của mình với nỗi thương cảm cho thân phận và cuộc đời phải chịu nhiều đắng cay.
Với những từ ngữ Hán Việt, những điển tích và điển cố xưa trong những tác phẩm xưa của Trung Quốc tác giả đã miêu tả cuộc sống của nàng cung nữ trong cung vua với những cảm xúc thăng trầm. Cùng với những tư tưởng của đạo Phật, đạo Lão và đạo Nho đã phác họa nên một tác phẩm mang đậm màu sắc hư vô trong thân phận kiếp người và cuộc đời. Chính vì vậy người viết đã chọn đề tài: “Triết lý hư vô về kiếp người, cuộc đời trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều.” Đây là một tác phẩm được viết trong thời Lê-Trịnh nhưng vẫn mang màu sắc tôn giáo và chính từ đó đã nỗi bật lên triết lý hư vô về thân phận kiếp người cũng như về cuộc đời một cách tài tình.
NỘI DUNG
1. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
1.1. Tiểu sử Nguyễn Gia Thiều
Nguyễn Gia Thiều sinh ngày 22 tháng 3 năm 1741 (nhằm ngày 5 tháng 2 năm Tân Dậu), ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, trong một gia đình đại quý tộc, có nhiều người làm tướng, làm quan cho triều đình vào cuối thời vua Lê chúa Trịnh.
Cha ông là Nguyễn Gia Cư, một quan võ được phong tước Đạt Vũ Hầu và mẹ là Quỳnh Liên quận chúa. Ông gọi chúa Trịnh Cương là ông ngoại vì Quỳnh Liên quận chúa là con gái của chúa Trịnh Cương. Ông nội là Nguyễn Gia Châu, một võ quan nhưng thông kinh sử được phong tước công. Ông gọi chúa Trịnh Doanh đang cầm quyền lúc bấy giờ là cậu ruột, và là anh em họ với chúa Trịnh Sâm. Vợ ông là con gái trưởng của quan Chưởng phủ sư Đại tư đồ Bùi Thế Đạt.
Năm lên sáu tuổi, ông đã được vào học trong phủ chúa vì gia đình bên ngoại thuộc họ nhà chúa. Năm 1759 khi mới 18 tuổi, ông giữ chức Hiệu úy, quản Trung mã tả đội. Sau đó ông làm chỉ huy Thiêm sự. Năm 1782, ông được thăng Tổng binh coi giữ xứ Hưng Hóa. Ông là một người tài năng đa dạng, có công với triều đình nên được chúa Trịnh tin dùng và phong tước Ôn Như Hầu.
Trong thời gian làm tổng binh ở Hưng Hóa, dù có công và được khen thưởng nhưng ông vẫn thường bỏ về nhà riêng ở Hồ Tây để làm thơ và bàn luận về triết học với bạn bè. Có người nói rằng chúa Trịnh không còn tin dùng ông nữa nên đẩy ông đi trấn giữ Hưng Hóa vì thế mà ông chán nản bỏ về nhà sống cuộc đời tài tử, làm thơ, uống rượu và cả tu hành với hiệu là Như Ý Thiền. Ông còn những biệt hiệu khác là Hy Tôn Tử, Tân Thi Viện Tử và Sưu Nhân.
Ông là người có sự hiểu biết sâu rộng về văn học, sử học, triết học và còn tinh thông âm nhạc. Sở trường âm nhạc của ông là các bài ca, bài tán và là tác giả của bản Sơn trung âm và Sở từ điệu. Ông còn tinh thông hội họa và vẽ rất đẹp. Bức tranh lớn của ông là Tống sơn đồ đã dâng vua xem và được vua khen thưởng. Ông am tường cả kiến trúc và trang trí nên được chúa Trịnh giao cho trông nom việc trang hoàn phủ chúa và điều khiển xây tháp chùa Thiên Tích ở Bắc Ninh. Đáng tiếc là các công trình nghệ thuật của ông đến nay không còn được lưu lại.
Sự nghiệp văn chương của ông cũng để lại nhiều tác phẩm có giá trị cao. Về thơ chữ Hán, ông có hai tập là Ôn Như thi tập khoảng một ngàn bài nhưng đến nay đã bị thất lạc. Về tác phẩm chữ Nôm, ngoài Cung oán ngâm khúc còn có Tây hồ thi tập và Tứ trai thi tập hiện chỉ còn vài bài chép trong tập Tạy ký của Lý Văn Phức như Cảnh trong vườn và Miếng tình.
Nguyễn Gia Thiều có nhiều con, trong số đó bốn người con đầu giỏi văn chương, có một tác phẩm chung là Tứ trai thi tập, gồm sáng tác của Tâm Trai - tức Nguyễn Gia Thiều, Kỷ Trai - Nguyễn Gia Cơ, Hoà Trai - Nguyễn Gia Diễm và Thanh Trai - Nguyễn Gia Chu.[1]
Khi Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt chúa Trịnh vào năm 1786, ông đã ở ẩn tại miền núi xứ Hưng Hóa. Đến năm 1789, khi Nguyễn Huệ đánh thắng quân Thanh và lập ra triều Tây Sơn vua đã mời ông cộng tác với triều đình nhưng ông cáo bệnh từ chối. Ông trở về quê cũ và sống ở đấy cho đến ngày 22 tháng 6 năm 1798 (nhằm ngày 9 tháng 5 năm Mậu Ngọ) thì qua đời, hưởng dương 57 tuổi.
Tên của ông được đặt cho một phố yên tĩnh, có nhiều biệt thự kiến trúc Pháp ở thủ đô Hà Nội, gần hồ Thiền Quang. Không những thế tên ông còn được đặt cho các tên trường và tên đường trong một vài tỉnh thành trên đất nước Việt Nam.
1.2. Nội dung và ý nghĩa tác phẩm Cung oán ngâm khúc
Cung oán ngâm khúc là tác phẩm kiệt xuất của Nguyễn Gia Thiều, được viết bằng chữ Nôm, gồm 356 câu thơ làm theo thể song thất lục bát[2]. Đây là một bài ca ai oán cho thân phận của một người cung nữ tài sắc vẹn toàn, lúc đầu được vua ân sủng, yêu thương thắm thiết nhưng chẳng bao lâu lại bị bỏ rơi. Ông đã dùng ngòi bút của mình với lối văn độc thoại để giải bày tâm trạng đau đớn của người cung nữ khi bị nhà vua ruồng bỏ. Nàng ý thức rõ được phẩm chất và tài năng của mình nên lặng lẽ tố cáo cuộc sống xa hoa phe phởn của vua chúa đã biến người phụ nữ thành món đồ chơi để thỏa mãn dục vọng một cách vô đạo. Sống trong cung cấm với nỗi cô đơn, tù túng nàng muốn thoát ra ngoài để trở về với cuộc sống “cục mịch nhà quê” của ngày xưa nhưng nàng vẫn bị giam cầm với bao nỗi niềm chất chứa. Cuối cùng, nàng vẫn khát khao được sự ân sủng nhỏ nhoi của vua như ngày nào nhưng đó chỉ là một ước mơ đầy tuyệt vọng. Và nàng nhận ra cõi đời này chỉ là những phù du, hư vọng, không thật như vừa tỉnh một giấc mơ.
Cung oán ngâm khúc được xem như một bản cáo trạng tố cáo chế độ phong kiến đã chà đạp con người thông qua là tiếng thét ai oán của một trang tố nữ tài sắc vẹn toàn và tình cảm trong sáng, cao quý mà bị ruồng bỏ. Hình ảnh cung nữ chính là nạn nhân của chế độ phong kiến mang đầy bản chất ích kỷ hẹp hòi đến vô đạo của vua chúa đã biến họ thành món đồ chơi để thỏa mãn thú tính rồi ném bỏ không thương tiếc vào quên lãng. Nguyễn Gia Thiều đã thấy được cảnh này khi lui tới trong phủ chúa nên cảm thương cho nỗi lòng của người cung nữ. Với tấm lòng nhân đạo ông đã dồn hết tâm huyết và văn tài của mình để viết nên một tác phẩm bất hủ, đau đớn đến xé lòng về cuộc đời nàng. Nhưng ý nghĩa của tác phẩm không chỉ dừng lại ở đó mà còn mang một ý nghĩa sâu xa hơn là “Nguyễn Gia Thiều đã mượn lời cung nữ để nói lên tâm sự bế tắc của mình, cũng là sự bế tắc của lớp nhà Nho thời đại ông, đầy chán chường và mệt mỏi.”[3]
2. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA TRIẾT LÝ HƯ VÔ VỀ KIẾP NGƯỜI, CUỘC ĐỜI TRONG CUNG OÁN NGÂM KHÚC
Qua tác phẩm Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều bày tỏ tâm sự của một kẻ sĩ đã nhìn thấy bao tang thương, thăng trầm, biến đổi của cuộc sống mà chính ông là người đã sống trong những biến cố ấy. Sự bế tắc của một thời đại với những tấm bi kịch đến tê tái trên thân phận kiếp người thông qua lời của người cung nữ đã vẻ nên một bức tranh ảm đảm cho xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Nhưng dường như ông chỉ mượn tâm sự của người cung nữ để nói lên nỗi niềm u uất của ông và cũng là của bao nhiêu người khác phải chịu nhiều bất công dưới chế độ phong kiến. Đến khi nỗi u uất đến đỉnh điểm ông đã lãng quên tâm trạng của người cung nữ mà trực tiếp bộc lộ về suy nghĩ của mình về kiếp người, về cuộc đời với triết lý hư vô rải rác trong tác phẩm và vô cùng sắc xảo đến từng chi tiết cũng như câu chữ.
Hư vô ở đây không phải Không cũng không phải Có. Ý thức, sự suy nghĩ thì bị giới hạn trong thế giới nhị nguyên :có và không. Nếu vượt có, không, lòng không dính mắc, sẽ trực nhận được Hư Vô. Chúng ta đã quá quen thuộc và trọn tin nơi ý thức, Hư vô không phải tư duy mà được, càng tư duy con người càng sai lầm và ý thức của con người không phải là một thứ dễ tin tưởng. Theo nhà Phật khi con người chưa giải thoát thì mọi tư duy của con người vẫn bị vô minh chi phối. Tất cả mọi khái niệm đều bị giới hạn và hư vô nếu có khái niệm thì cũng không chính xác. Càng lăn xăn suy nghĩ về khái niệm càng xa lìa Hư Vô, tánh Không, Phật tính, bản thể vũ trụ. Nói chung hư vô là không có gì tuyệt đối, không thật có cũng không thật không, là hư vọng, giả hợp thoát ra hẳn tư duy của con người và hư vô nó có những biểu hiện của nó. Và trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều có mang những biểu hiện của hư vô.
2.1. Quan niệm “Đời là bể khổ” trong Cung oán ngâm khúc
Với giọng văn gồm nhiều từ ngữ của nhà Phật, Nho, Lão, Ôn Như Hầu đã giải thích về nhân sinh, vũ trụ và cuộc đời. Ông cho rằng cuộc đời là bể khổ mê tân, con người từ khi có mặt ở cõi đời này đã là khổ:
“Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc chào đời mà ra!” (câu 55 - 56)
Đây là quan niệm “Sinh là khổ”, một trong Bát khổ của Khổ đế mà Đức Phật đã nói trong Tứ Đế. Khổ đế là chân lý đầu tiên trong Tứ Đế, nói lên sự thống khổ của chúng sinh và “Sinh là khổ” là điều đầu tiên mà Đức Phật đề cập đến. Khi mới sinh ra con người đã là khổ rồi và nỗi khổ đó được báo trước nên tiếng kêu đầu tiên lại là tiếng khóc. Tại sao không phải là tiếng cười mà là tiếng khóc vì tiếng khóc báo hiệu sự có mặt trên cõi đời này của con người sẽ chịu nhiều nỗi khổ mà sinh là nỗi khổ đầu tiên mà con người phải gánh chịu. Cùng quan điểm đó, Nguyễn Công Trứ cũng có câu:
“Thoạt mở mắt thì đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì.”
Thật vậy, cuộc đời có vui gì đâu mà cười, chính vì không vui nên mới phải khóc lúc sinh ra chứ. Trịnh Công Sơn trong nhạc phẩm Phôi pha cũng có đoạn: “Thôi về đi, đường trần đâu có gì”. Đúng vậy, đường trần không có gì cả chỉ là khổ thôi, mà Đức Phật cũng đã nói: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển” và con người chỉ là cánh bèo trôi nỗi dập dền trong bể khổ ấy:
“Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.” (câu 67 - 68)
“Bể khổ: từ Hán Việt là khổ hải. Đức Phật ví sự khốn khổ của chúng sanh mênh mông vô cùng như biển”[4]. Bến mê: bởi chữ mê tân, nhà Phật nói: sự ngờ vực ở nơi tam giới và lục đạo thì gọi là mê tân, bến lạc đường phải nhờ thuyền Từ-bi của Phật mới đưa vào đến bến được. Con người không thể định hướng cho chính mình mà chịu sự tác động của những yếu tố khách quan khác. Ôn Như Hầu ví thân phận con người như là bọt bèo để mặt cho dòng nước cuốn đi vào bến bờ vô định. Nghĩ đến thân thể mà đau đớn xót xa khi phải mang thân người. Khổng Tử cũng nói: “Ta khổ vì ta có cái thân này”, nếu không còn thân này nữa thì ta có hết khổ chăng! Chưa hẳn thế, không biết khi không còn thân nữa thì ta có hết khổ không nhưng chỉ biết rằng khi có thân thì chắc chắn là có khổ. Đau đớn hơn cả là con người không thể làm được những gì mà mình muốn nên phải cứ dằn vặt trong biển khổ đau thương:
“Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh” (câu 71 - 72)
Bào ảnh: là cái bọt cái bóng. Kinh Kim Cương nói: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ riệc như điện, ưng tác như thị quan.” Nghĩa là: Tất cả các pháp như giấc chiêm bao, như chuyện huyền ảo, như bọt nước, như bóng đèn, như giọt sương móc và cũng như ánh sáng chớp nhoáng. Ý nói những sự hiện hữu trên đời đều không được lâu bền, là giả tạm, là vô thường.[5] Dù biết đời là tạm bợ, thân là giả dối không thật, đó là đứng trên phương diện pháp tướng của nhà Phật mà nói, nhưng cái mà con người đối diện với những đau khổ cay cực của cuộc đời là có thật. Cái đau khổ đó không những người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc muốn thoát ra mà cả Nguyễn Gia Thiều cũng muốn phá tan cái vòng bức bách ấy. Sự cay nghiệt của tạo hóa đã giết chết con người hồi nào không hay:
“Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.” (câu 73 - 74)
Trẻ tạo hóa: bởi chữ tạo hóa tiểu nhi, trẻ nhỏ tạo hóa, đây là lời nói bỡn gọi ông trời bằng trẻ con; nó xuất phát từ điển tích ông Đỗ Thẩm Ngôn đời Đường, khi đau nặng, bọn ông Tống Chi Vấn vào thăm, Đỗ Thẩm Ngôn nói rằng: “Ngao ngán thay trẻ tạo hóa làm ta nên khổ sở thế này…”[6] Chết đuối người trên cạn: bởi chữ Lục-trầm. Lục là trên cạn. Trầm là chìm đắm, Trang tử nói: “Không thèm đi chung với đường đời gọi là chết đắm trên cạn”. Ở đây có nghĩa là không hạp với tình đời.[7]
Phải chăng, tạo hóa khéo sắp đặt cho những con người “tài hoa bạc mệnh” Ông Như Hầu đã cảm thương cho thân phận tài hoa mà phận bạc của người cung nữ. Ông cảm thương cho người cung nữ cũng chính là sự cảm thương mình vì Nguyễn Gia Thiều cũng là một người tài hoa nhưng số phận của ông cũng gặp phải sự cay nghiệt của tạo hóa. Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng ai oán không kém: “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. Đâu phải Nguyễn Du chỉ có thương cảm cho nàng Kiều mà còn thương cho chính Nguyễn Du nữa để “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh, giật mình mình lại thương mình xót xa”. Ông cũng đau đớn chua chát cho thân phận con người đâu thua kém gì Nguyễn Gia Thiều khi sống trong chế độ phong kiến ở thế kỷ XVIII. Sự chà đạp con người của xã hội phong kiến cùng với sự khắc khe của tạo hóa đã làm cho con người tê tái cả cõi lòng.
Đâu chỉ có “sanh là khổ” mà trong suốt cuộc đời từ lúc trẻ cho đến lúc tuổi già con người luôn đối diện với những bức bách, những nỗi sợ hãi về cuộc sống, đã bao lần lâm vào những cảnh sống dỡ, chết dỡ, đói nghèo hoành hành, tai nạn kinh khiếp:
"Trắng răng đến thuở bạc đầu,
Tử, sinh, kinh, cụ, làm nau mấy lần." (câu 59 - 60)
Đường đời còn chồng chất nhiều nỗi đắng cay cùng với bệnh tật đã hành hạ thân xác lẫn tinh thân của con người. Sự thống khổ của bệnh tật đã cắt đứt tim gan, đốt ruột, cắt da con người hằng ngày hằng giờ trong đau đớn:
“Bệnh trần đòi đoạn tâm can,
Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da.” (câu 63 - 64)
Với hình ảnh “lửa” trong câu thơ này, Nguyễn Gia Thiều đã dựa vào tư tưởng của kinh Pháp Hoa để nói về nỗi khổ của chúng sanh bị thuê đốt trong nhà lửa của tam giới: “Tam giới bất an, do như hỏa trạch”. Ở đây, ông miêu tả sự bức bách của người cung nữ khi sống trong sự tù túng của cung cấm giống như bị thiêu đốt trong nhà lửa. Tuy nhiên sự bức bách thật sự trong tác phẩm này hàm ý nói lên nỗi khổ tâm của tác giả khi sống trong chế độ phong kiến đầy dãy những điều “chướng tay gai mắt”. Chính vì sự chán ngán đó đã làm cho con người thêm mệt mỏi. Khi mùi đời chỉ toàn là hương vị đắng cay thì còn có gì vui đâu để mà bám víu:
“Mùi tục lụy dường kia cay đắng,
Vui chi mà đeo đẳng trần duyên.” (câu 105 - 106)
Sống trong cuộc đời với hàng nghìn cảnh va chạm của công việc, của các mối quan hệ với xã hội, gia đình, dòng tộc, hàng trăm lần bị sứt mẻ thân thể lẫn tâm lý đã làm tin gan con người se thắt lại. Có khi muốn chết cho mau nhưng nào được như vậy. Khổ sở nhất là trong cảnh sống không được mà chết không xong mà cứ phải chịu đựng những nỗi đau dày vò dằn xé:
“Đòi những kẻ thiên ma bách chiếtHình thì còn bụng chết đòi mau !” (câu 53 - 54)
Không chết được, vậy thì phải sống. Còn sống thì phải còn tất bật với cuộc mưu sinh. Trong cuộc mưu sinh đó con người phải toan tính và chạy theo cái vinh hoa phú quý có khi đánh mất mình hồi nào không hay. Thật ra có ai biết đủ để mà dừng lại. Chính vì sự ham muốn danh vọng mà con người đã rượt đuổi nó như một chiếc bóng. Nguyễn Gia Thiều đã phê phán hóa sự phú quý là “mồi phú quý”. Phú quý ở đây chỉ là miếng mồi dành để câu những con cá mà thôi. Con cá nào đớp được mồi tưởng đâu có được một bửa ăn no ai ngờ lại mắc phải cái lưỡi câu thì thật là khốn khổ. Còn vinh hoa thì ông lại gọi là “bả vinh hoa”. Bả ở đây là một thứ bỏ đi khi ai đó đã hưởng hết những phần tinh túy rồi. Cái mà người này bỏ người khác đi tìm thì đâu có giá trị gì nữa. Đã chán chê rồi cho nên mới bỏ và cái bỏ ấy chỉ còn là cái bả mà thôi. Vậy mà cái “bã vinh hoa” ấy biết bao nhiêu người tranh giành nhưng rốt cuộc chỉ là một trò lừa bịp của tạo hóa:
“Mồi phú quý dữ làng xa mã
Bả vinh hoa lừa gả công khanh.” (câu 81 - 82)
Dẫu biết là trò lừa bịp của tạo hóa nhưng con người cứ mãi mê muội không nhận ra, cứ chạy đua theo nó đến nỗi “gót chân lấm bùn” (câu 70), “tóc rụng gần hết” mới nhận ra mình chẳng được gì. Kẻ mưu cầu được thì lại tham lam muốn hơn thế nữa, còn kẻ mưu cầu không được lại đau khổ khóc than. Đây chính là “cầu bất đắc khổ” mà Đức Phật đã nói trong Khổ Đế và được Nguyễn Gia Thiều áp dụng vào tác phẩm của mình.
Tất cả nỗi khổ của người cung nữ cũng bắt nguồn từ chữ ái mà ra. Chính tình yêu đã làm cho người cung nữ bị ràng buột. Trong giáo lý Thập nhị Nhân duyên thì chi “ái” là một trong những chi khó đoạn nhất. Trong kinh Đoạn tận ái, Phật dạy: Nếu đoạn tận ái dục thì tất cả các chi khác cũng sẽ bị đoạn tận. Nếu đoạn tận các chi trong Thập nhị Nhân duyên con người sẽ được giải thoát. Giải thoát cũng có nghĩa là con người chấm dứt mọi khổ đau. Người cung nữ đã vướng phải lưới tình cho nên mới sinh ra những phiền não:
“Ngẫm nhân sự cớ gì ra thế,
Sợi xích thằng chi để vướng chân,
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn rẩy nguội dần lửa dương.” (câu 45 đến 48)
Sợi xích thằng là sợi dây đỏ hay còn gọi là dây tơ hồng. Điển này xuất phát từ của tích của Vy Cố đời Đường ở Tống-đô, đêm đi chơi mát, gặp ông già ngồi xem sách ở dưới trăng, bên có cái đãy đựng tơ đỏ (xích thằng) hỏi ông đáp rằng: Quyển sổ này chép tên tuổi, đãy đựng sợi tơ đỏ để buộc duyên phận vợ chồng người. Những người đã ghi tên vào sổ này, dù người thù hoặc ở nước khác cũng vầy nên chồng vợ. Ông này không có tên, ông xem sách dưới trăng nên gọi Nguyệt lão có nghĩa là ông già dưới trăng, hoặc có khi gọi là “Trăng già" hàm ý là Nguyệt lão. Chính dây tơ hồng của Nguyệt lão đã cột chân của người cung nữ đã làm cho nàng vướng chân không thể thoát khỏi cái vòng lẫn quẩn đến nỗi nàng muốn cần đến giọt nước cành dương của Bồ tát Quan Thế Âm làm nguội lữa ái dục trong lòng nàng để nàng được thanh thản.
Nước dương: bởi chữ Dương chi tịnh thủy, giọt nước nơi cành dương liễu. Sách Pháp Uyển Châu Lâm chép: có vị tăng tên Phật Đồ Trừng người nước Thiên Trúc một hôm ông Thạch Lặc mời đến nhà chơi, vừa có đứa con đau bệnh nặng. Phật Đồ Trừng lấy cành dương liễu tẩm nước phép rảy cho đứa bé đau, liền lành khỏi. Phép ấy của Phật Quan Âm có bình ngọc cắm cành dương liễu trong bình có những giọt nước làm cho chúng sanh mát dịu như có phép mầu.
Phải nói rằng nguyên nhân của người cung nữ cũng bắt nguồn từ chữ “ái” mà ra và chính nó đã làm nên biết bao nhiêu phiền muộn, bức bách. Triết lý hư vô trong Cung oán ngâm khúc khi cuộc đời là bể khổ đã in đậm trong tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều toát lên tư tưởng nhân đạo cảm thương cho thân phận con người qua lời oán than của người cung nữ. Ông tiếp thu khá rõ chân lý Khổ Đế của Đức Phật, tuy nhiên ông chưa tiếp thu ba chân lý khác là Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế nên màu sắc của tác phẩm mang một màu tối và tư tưởng của tác phẩm là sự yếm thế, không lối thoát.
2.2. Quan điểm về duyên sinh, vô thường và vô vi trong Cung oán ngâm khúc
Chính vì ngán cái “tạo hóa” trớ trêu mà ông cho rằng muôn vật ở đời chỉ là hư vô, hư trụ, do duyên sinh, duyên khởi của vạn pháp mà tồn tại. Người viết tạm dùng hai từ “tạo hóa” để nói về một sự sắp đặt sẵn của mọi sự vật hiện tượng và luôn cả kiếp người. Con người tin có một đấng “bề trên” nào đó sắp đặt cuộc sống của con người và chi phối cả vũ trụ. Nguyễn Gia Thiều cũng tin như thế, nhưng ông còn am tường hơn khi đem giáo lý duyên khởi của đạo Phật để giải thích cho sự tồn tại của vạn pháp nói chung và của con người nói riêng. Con người đã tồn tại trên cõi đời này theo nhân duyên hòa hợp mà thành thì vũ trụ nơi mà con người hiện hữu cũng do nhân duyên mà sinh diệt. Nhưng dù con người có tồn tại trong vũ trụ này cũng chỉ là sự ê chề, bi thương vì bị luật vô thường chi phối. Sự sanh diệt của con người sớm muộn gì cũng bị tan hoại bởi luật vô thường. Còn mọi sự vật hiện tượng trên cõi đời này cũng chỉ là giả hợp không thật có:
“Tiêu điều nhân sự đã xong,
Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư.” (câu 95 - 96)
Như vậy, có gì đâu để đáng tự hào, để đáng vui trong kiếp sống phù sinh này chứ. Đó là sự bi đát nhất của vạn pháp mà con người cũng chỉ là một trong những hạt cát của sa mạc vạn pháp đó mà thôi cho nên phải chịu chung số phận sinh diệt, vô thường này. Tư tưởng này xuất phát từ Phật giáo và của Lão Trang mà Nguyễn Gia Thiều chỉ là người tiếp thu nó. Nguyễn Gia Thiều đã tiếp thu chân lý đầu tiên của đạo Phật là Khổ Đế, thuyết vô thường, thuyết duyên khởi để nâng cao nó thành tư tưởng của tác phẩm. Bên cạnh đó, ông còn tiếp thu triết lý vô vi trong Đạo Đức kinh của Lão Trang để nâng cao thành triết lý sống của mình.
Triết lý vô thường của đạo Phật và thuyết vô vi của Lão Trang trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc đã vẽ cho cuộc đời một bức tranh tang thương của kiếp người chăng? Không phải thế, hai triết lý này mô tả một cách hiện thực bản chất của vạn pháp là duyên sinh duyên khởi. Có sinh ắt có diệt đó là chân lý hiển nhiên và con người phải biết chấp nhận nó để mà sống, để mà khỏi đau khổ thêm nữa.
Trong câu 76, ông viết: “Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương", vân cẩu: là mây chó, ý này được lấy trong thơ của Đỗ Phủ:
“Thiên thượng phù vân như bạch y,
Tu tư hốt biến vi thương cẩu.”
(Trên trời đám mây nổi như cái áo trắng,
Bỗng chốc hóa hình con chó xám.)
Ý nói sự biến chuyển nhanh chóng của mây. Về sau đem ví sự thay-đổi trên đời. Tang thương: tang là cây dâu, nương trồng dâu, thương là bể khơi, bãi bể. Sách Liệt Tiên truyện chép: Bà Ma-cô tiên-nữ đã nói bà từng thấy một nơi kia đám nương trồng dâu đã ba lần hóa thành bể khơi, bãi bể. Ý nói sự thay đổi nơi trần thế nhiều lần. Tang thương hay còn gọi Tang-hải-Tang-thương- Bãi bể nương dâu- Bể dâu, đều là một nghĩa.[8] Sự thay đổi biến thiên của một con người giống như nhìn một đám mây nỗi như áo trăng bỗng chốc lại hóa thành hình con chó. Biển xanh còn biến thành nương dâu thì thân người có xá gì. Theo Nguyễn Gia Thiều thời gian của một kiếp người thoáng mất qua cửa sổ: "Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi" (câu 353) còn Trịnh Công Sơn trong ca khúc Tình xa lại cho rằng: “Ôi tiếng buồn rơi đều nhìn lại mình đời đã xanh rêu”. Thật vậy cuộc sống con người thật ngắn ngủi nhưng con người đâu ý thức được đều đó. Chính không ý thức nên đã để thời gian trôi qua rất nhanh đến khi nhìn lại thì tóc trên đầu đã điểm bạc. Con người lúc nào cũng nghĩ rằng sự tồn tịa của một kiếp người là rất lâu nên nhạc sĩ Y Vân mới viết ca khúc Sáu mươi năm cuộc đời. Nhưng đối với đạo Phật thì kiếp sống của con người chỉ tồn tại trong từng hơi thở. Ở điểm này Nguyễn Gia Thiều thừa tự được tư tưởng của đạo Phật nhận biết thời gian như bóng câu qua cửa sổ rồi cuối cùng chẳng được gì ngoài nấm mồ cỏ mọc xanh rì:
“Tuồng ảo hóa huyễn bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.” (câu 103 - 104)
Vẫn biết cuộc đời là bể khổ, là bến mê, tất cả hạnh phúc trên đời chỉ là phù hoa ảo ảnh sẽ chìm đám vỡ tan như bọt bèo trong vũ trụ. Nguyễn Gia Thiều đã ví cuộc đời này là vỡ “tuồng” mà vỡ “tuồng” thì làm gì mà có thật cho nên nó mới là “tuồng ảo hóa”. Nếu cuộc đời này là vỡ tuồng thì con người là những diễn viên trong vỡ tuồng đó được sự sắp đặt của đạo diễn “tạo hóa” chứ không phải làm theo ý của mình. Đáng buồn nhất là con người giống như một con rối trong vỡ “tuồng ảo hóa” này bị người khác giật dây. Có vui hay có buồn gì đi chăng nữa cũng phải cố gắng đóng cho tròn vai diễn chứ không được quyền quyết định hay cải lại. Ngẫm nghĩ lại kiếp người mà thấy đau lòng khi nhìn lại trăm năm đi qua của một kiếp người cuối cùng chỉ là một nắm mộ bên nghĩa địa buồn mà thôi. Ý thơ này của Nguyễn Gia Thiều giống với tư tưởng của Nguyễn Du trong hai câu đầu của tác phẩm Truyện Kiều:
“Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
Có sống qua gần hết một kiếp người thì cuối cùng nhìn lại chỉ là sự chán chường đau đớn. Người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều đã gặp Nguyễn Du cùng một quan điểm. Dù có sống đến trăm năm thì chỉ là trò bể dâu mà thôi. Nguyễn Gia Thiều đã miêu tả tâm trạng khổ sở cùng cực của người cung nữ khi bị dày vò trong cung cấm. Thông qua những hình dung từ: ảo, hư, tiêu điều, đau, tang thương cũng đủ nói lên tâm trạng quặn thắt của người cũng nữ trong chốn thâm cung.
Nguyễn Gia Thiều còn xem cuộc đời này chỉ là giấc mộng: "Kìa thế tục như in giấc mộng" (câu 49). Những vần thơ trong Cung oán ngâm khúc được xem khoảng thời gian hưởng niềm vui thoáng đến rồi chợt đi giống như một giấc mộng. Những điển này được dựa vào tích của Tô Đông Pha, Trang Chu, Lý Công Tá (bài Ký Nam Kha Mộng). Ngay cả trong tình yêu cũng được ví như giấc “mộng xuân” ngắn ngủi mà một khi mất đi con người ta dù có ngàn vàng cũng không thể nào mau lại được:
“Dẫu mà ai có nghìn vàng
Đố ai mua lấy được một tràng mộng xuân” (câu 175 - 176)
Cho đến khi đêm nằm ngủ trong chiêm bao thấy hồn mình thành bướm nhởn nhơ đó đây, nhưng khi tỉnh giấc thấy mình vẫn là con người nên lòng còn tiếc nuối ngẫn ngơ:
“Khi bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ” (câu 218)
Mọi sự vật sự việc, mọi hiện tượng ở đời cũng chỉ là một giấc mộng Nam Kha huyễn hóa và vô tình mà thôi:
“Giấc Nam Kha khéo bất tình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không" (câu 83 - 84)
.“Giấc mộng Nam Kha”, có nguồn gốc từ cuốn tiểu thuyết “Tiểu sử Nam Kha Thái Thú” của tác giả Lý Công Tá đời Đường Trung Quốc thế kỷ 9 công nguyên. Kể về chuyện của Thuần Vu Phân, nhân ngày sinh nhật của ông, người thân và bạn bè đều đến chúc thọ, ông vui mừng quá, và uống nhiều chén rượu. Sau khi người thân và bạn bè về nhà, ông ngà ngà say hóng mát dưới cây hòe, bát giác ngủ quên.
Trong giấc mơ, ông mơ thấy mình đi thi rồi đậu trạng nguyên và được vua gã công chúa cho ông. Sau đó không lâu ông được nhà vua cử đến quận Nam Kha làm thái thú. Ông cố gắng làm việc và quý mến nhân dân nên được nhân dân hết lòng khen ngợi. Ba mươi năm trôi qua, thành tích của ông đã nổi tiếng khắp toàn quốc, và ông đã có bảy con, năm trai hai gái, cuộc sống rất hạnh phúc. Nhà vua mấy lần muốn điều động ông về kinh thành đảm nhiệm chức vụ cao hơn, nhưng người dân không cho.
Khi nước Thiên La đem quân xâm lược nước Đại Hòe, nước Đại Hòe bị thua trận nhiều lần. Các quan trong triều tiến cử Thuấn Vu Phân, thái thú quận Nam Kha có thành tích công tác xuất săc, bèn giới thiệu với nhà vua. Nhận mệnh lệnh của vua, ông dẫn quân xuất chinh nhưng vì không biết phép dùng binh nên quân của ông đã bị thua và xuýt nữa ông bị bắt. Được tin này, nhà vua hết sức thất vọng, ra lệnh truất bỏ mọi chức vụ của ông, giáng xuống làm bình dân, và đưa về quê. Thuấn Vu Phân nghĩ tên tuổi anh hùng của mình bị phá hủy hoàn toàn, hết sức xấu hổ và tức giận, kêu một tiếng thật to, ông tỉnh dậy từ giấc mơ. Ông theo cõi mộng đi tìm nước Đại Hoè, hóa ra dưới cây hòe có một lỗ con kiến và có những kiến đang cư trú ở đó. Nghĩ đến tích này mọi người gọi là “giấc mộng Nam Kha” hay còn gọi là “giấc hòe”.[1]
“Giấc mộng Nam Kha” được con người ví như là một giấc mơ về vinh hoa phú quý, nó chỉ là huyễn hóa không thật, khi tỉnh giấc mơ thì hiện thực vẫn trở về. Ở đây người viết đưa ra quan điểm: “Giấc mơ là có thật nhưng những điều trong giấc mơ chỉ là hư ảo.” Thế mới hay trò đời dâu bể khéo sắp bày và cuộc đời chỉ là một giấc mộng vô thương, hư vọng.
[1] Câu chuyện Giấc mộng Nam Kha, http://vietnamese.cri.cn/chinaabc/chapter16/chapter160413.htm
3. Quan điểm về tiền định, nghiệp báo, luân hồi
Nguyễn Gia Thiều cho rằng đời là tạm bợ nên phải ung dung tự tại để sống nhiều khi còn muốn tu hành thoát tục. Những điều này được thể hiện trong thơ ông nhưng chưa đạt rốt ráo của sự giải thoát. Ông muốn thoát khỏi chế độ xã hội bất công đã khinh thường và áp bức con người đến mức nghẹt thở cũng như người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc đã muốn phá tan cung cấm giam hãm mình bấy lâu nay để trở về sống đời “cục mịch nhà quê” mà không được. Điều này cho thấy làm người thật khó, không phải muốn gì cũng được. Ấy phải chăng đó là sự sắp đặt của “tiền định” mà con người không thể can dự vào:
“Vẻ chi ăn uống sự thường
Cũng còn tiền định khá thương lọ là.” (câu 51 - 52)
Theo Vũ Ngọc Khánh thì ý này lấy từ sách Mạnh Tử : “Nhất ẩm nhất trác sự giai tiền định” (một cái uống một cái ăn đều được định trước).[10] Những việc nhỏ như cái ăn cái uống mà còn được tạo hóa sắp đặt sẵn huống chi là những việc liên quan đến vận mệnh của con người. Con người không thể cưỡng lại nỗi mà đành cam chịu số phận khắc nghiệt do tạo hóa đã định trước.
Đó là tâm trạng bế tắc của Nguyễn Gia Thiều hay là sự bế tắc của cả xã hội phong kiến thế kỷ XVIII. Xã hội bế tắc là do con người hay do “tiền định”? “Một câu hỏi lớn không có lời giải đáp, cho đến bây giờ mặt vẫn chau.” Chính nhà thơ Huy Cận trong bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương đã nói như thế. Mọi sự bế tắc của kiếp người in hằn trên thể xác lẫn tâm hồn của các vị La Hán. Chính cha ông ta đã đem những tâm sự u uẩn, bế tắc ấy vào trong những tác phẩm của mình. Các vị La Hán đã dứt hết các phiền não rồi nhưng không ngờ khi thấy cảnh đời cơ cực của chúng sanh mà “các vị đau theo lòng chúng nhân”. Nhìn thấy cảnh đời cay nghiệt mà chế độ phong kiến đem lại cho con người thì “tượng không khóc cũng đổ mồ hôi”. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng viết:
“Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ,
Văn chiêu hồn từng thắm giọt mưa rơi.”
Theo ý của người viết nghĩa rằng “tiền định” còn hàm nghĩa là “nghiệp”. Đây là một quan điểm của đạo Phật. Do nhân của tiền kiếp của người cung nữ đã gieo cho nên ngày nay gánh quả báo là phải chịu tất cả những đau khổ. Do nghiệp của thân, khẩu, ý tạo tác mà ngày nay người cung nữ khó có thể mà thoát được dù có muốn thoát hay không. Chính cái nghiệp này đã trói buột cuộc sống của con người, nếu con người có vùng vẫy cũng không thể thoát nên đành phải chấp nhận nó mà thôi. Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng nói:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.”
Chính vì sự bế tắc không thể thoát ra khỏi cái nghiệp đã định sẵn mà Nguyễn Gia Thiều muốn tìm đến sự tu hành. Một mặt ông muốn tìm đến của Phật để mong dứt hẳn mối thất tình vây hãm con người:
“Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong.” (câu 109 – 110)
Thất tình: là bảy thứ tình của con người gồm: hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục: mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét và ham muốn, là con người ai ai cũng có bảy thứ tình này đã làm cho con người đau khổ, trầm luân. Ông muốn tìm đến cửa Phật để “mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên”. Hoa đàm: bởi chữ Ưu-đàm-hoa là một hoa thiêng-liêng của nhà Phật, ba nghìn năm mới có một lần nở hoa, mỗi khi có hoa tức có Phật ra đời.[11] Ông muốn mình như hoa đàm không vướng bận một chút ưu phiền nào. Đuốc tuệ: bởi chữ Tuệ hỏa, tiếng nhà Phật nói: ngọn lửa trí tuệ để đem chúng sinh ra khỏi nơi chướng ngại khổ sở. Ông muốn dùng đuốc tuệ để soi đường dẫn lối ông thoát khỏi sự bế tắc của cõi đời này. Nói cách khác là ông muốn tìm đến với đạo Phật để tu hành với tiêu chí “duy tuệ thị nghiệp” nghĩa là lấy trí tuệ làm sự nghiệp để mà giải thoát.
Nguyễn Gia Thiều không chỉ tu theo Phật mà ông còn muốn tu theo đạo Lão nữa Ông muốn: “Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa” để quên đi những nỗi phiền muộn của cuộc đời. Ông muốn tiêu dao vui thú với thiên nhiên cho quên đi những tháng ngày u uất.
“Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.”(câu 113 - 116)
Ông muốn thoát khỏi cái thân uế trượt này siêu thăng như tiên để được tiêu dao không phải lo toan với những ưu tư phiền muộn. Nhưng không phải ai muốn đi tu là cũng tu được đâu? Ôn Như Hầu còn cảm thấy trên con người còn có một sức mạnh thần bí nào đó chi phối kiếp người mà con người tự mình không thể hiểu thấu trong hai câu thơ:
“Cái quay búng sẵn trên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.” (câu 91 - 92)
Theo Vũ Ngọc Khánh chỉ có “ba chữ “cái quay búng” mà mỗi người hiểu một các khác nhau. Giáo sư Nguyễn Huy Bảo trong cuốn sách “Nhân bản Thiên Chúa Giáo” (trang 76 và 24) giảng “cái quay búng” trong Cung Oán Ngâm Khúc là Trời (viết chữ hoa). Giáo sư Tôn Thất Lương lại giảng “cái quay” là luân hồi của Đạo Phật”. Còn trong Chú giải Cung oán ngâm khúc thì cho biết: “Cái quay: bởi chữ Luân hồi, bánh xe quay, là cái máy quay của tạo hóa; nhà Phật nói: chúng-sinh ở trong thế giới, từ khi đầu tiên đến nay cứ bị quay xoay vần trong lục đạo hết kiếp này đến kiếp kia mãi, như cái bánh xe quay mãi không thôi. Chỉ có kẻ tu hành đắc đạo mới thoát khỏi luân-hồi ấy.”
Chỉ có ba chữ thôi mà có nhiều cách hiểu khác nhau. Cũng theo Vũ Ngọc Khánh: “Nếu chỉ có ba chữ “cái quay búng” thôi, có thể hiểu là sự “may rủi”. Nếu thêm chữ “sẵn” thành “cái quay búng sẵn”, có thể là “tiền định”. Nếu lại thêm hai chữ “trên trời” cái tiền định này ở ngoài tầm con người không phải ở dưới trần nhưng ở trên trời. “Cái quay búng sẵn trên trời” chi phối ra sao? Trí người không ai thấu hiểu chỉ thấy “mờ mờ nhân ảnh”. Con người mò mẫm tìm ngược xuôi trong bóng tối “như người đi đêm” không biết đi về đâu. “Máy huyền vi mở đóng khôn lường”[12]
Người cung nữ muốn trở lại với cảnh đời được sủng ái như ngày xưa không được mà muốn thoát ra để trở về với cảnh đời “cục mịch nhà quê” cũng không xong. Đây chính là quan niệm sống của Nguyễn Gia Thiều muốn vứt bỏ đi tất cả nhưng lửa duyên lại chưa dứt được còn muốn tu hành nhưng nghiệp quả lại không cho. Chính vì vậy mà ông ngán ngẫm nên không mong muốn gì thế sự nữa:­
“Đa mang chi kiếp đèo bồng,
Vui gì thế sự mà mong nhân tình.” (câu 111 – 112)
Đây không chỉ là tư tưởng của Nguyễn Gia Thiều mà là của một lớp người trí thức bấy giờ. Xã hội rối ren không còn kỷ cương, một tâm trạng bế tắc trước xã hội như thế con người ta muốn thoát khỏi nhưng không thể, để thấy xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII là một xã hội bế tắc khiến con người muốn vùng vẩy ra khỏi mà không được. Dù có thương cảm cho kiếp người hay có oán than cho xã hội thì Nguyễn Gia Thiều cũng giữ một tấm lòng trung với vua giống như người cung nữ oán trách vua khi bị ruồng bỏ nhưng khi ước ao trở lại cảnh ái ân với vua như ngày nào không được thì nàng vẫn phải giữ lòng trung trinh:
“Phòng khi động đến cửu trùng
Giữ sao cho được má hồng như xưa.” (câu 355 – 356)
Đây là quan niệm về “chữ Trung” của Khổng Tử trong “Trung quân ái quốc” dù nhà vua có gì đi chăng nữa thì phận làm bầy tôi phải giữ lòng trung “Quân xử thần tử thành bất tử bất trung”. Nàng cung nữ dù có oán trách vua nhưng cuối cùng vẫn giữ một tấm lòng trung trinh ở đây nàng cung nữ đã nói thay cho Nguyễn Gia Thiều một nhà luôn đặt trên mình ba chữ “quân, sư, phụ” cho nên phải tận trung với vua. Nếu không trung với vua thì không là người yêu nước, chính vì vậy mà các nhà Nho rất xem trọng điều này. Hai câu thơ này la hai câu kết của tác phẩm hàm ý rằng dù xã hội có thế nào đi nữa thì con người cũng phải tôn trọng những giá trị lễ nghi của cuộc đời. Như nàng cung nữ dù có oán trách vua nhưng vẫn giữ một lòng trinh bạch cũng như Nguyễn Gia Thiều dù có bức xúc với xã hội đương thời những vẫn giữ lễ nghĩa của một người tri thức.
3. Giá trị nghệ thuật của Cung oán ngâm khúc
Với thể thơ song thất lục bát đã làm cho nhạc điệu của bài thơ là một bản tình ca đầy âm sắc. Với vần trắc của câu thất thứ nhất đã tạo nên một cảm giác rất gay gắt cho người đọc và người nghe. Nhưng câu thất thứ hai với vần bằng đã tạo sự nhẹ nhàng trở lại. Cho đến hai câu lục bát với vần bằng đã tạo nên một cảm giác trầm lắng xuống. Đây là nét độc đáo của bài thơ khi đọc đến hai câu lục bát có sự chùng xuống giống như những nốt trầm của một bài ca buồn. Theo người viết cảm nhận một khổ thơ bốn câu song thất – lục bát trong bài thơ này ẩn chứ nhiều cung bậc của cảm xúc. Câu thất thứ nhất nói lên sự ai oán, nỗi khát khao đến cháy lòng, câu thất thứ hai dịu hơn một chút vì sự ai oán và nỗi khao khát đã nguội dần, cho đến hai câu lục bát thì chùng hẳn vì biết rằng có mong đợi có ước ao cũng chỉ là tuyệt vọng mà thôi. Vần điệu song thất lục bát được kết hợp một cách nhuần nhuyễn, phép đối ngẫu được tôn trọng một cách chặt chẽ. Chính vì vậy mà Cung oán ngâm khúc từ khi phôi thai cho đến khi hình thành là dùng để ngâm nga chứ không phải để đọc.
Cung oán ngâm khúc rất chặt chẽ về mặt cấu trúc cũng như sắc sảo về ngôn từ. Ngôn ngữ trong Cung oán ngâm khúc hết sức tài hoa, chuẩn xác, dùng nhiều chữ Hán và điển tích, điển cố như: gió vàng hiu hắt, lạnh ngắt như đồng, thân phù thế, mùi tục luỵ, mồi phú quý, bả vinh hoa, cánh buồm bể hoạn, hoa chúm chím chào, cợt đào ghẹt mai, thánh thót cung đàn, nỉ non tiếng địch, gay gắt điệu, tê tái lòng, má đào chon chót, âm thầm chiếc bóng, hồn bướm vẩn vơ, dế ran ri rỉ, quyên kêu ra rả... Câu thơ trong Cung oán ngâm khúc được trau chuốt đến mức tuyệt hảo mà không có từ ngữ nào có thể thay thế được. Nó giống như một tác phẩm điêu khắc đòi hỏi sự tinh xảo và tỉ mỹ đến từng chi tiếc mà người nghệ nhân phải rất tài hòa mới thực hiện được.
Những danh từ được dùng như: bể khổ, bến mê, nước dương, bào ảnh, thất tình, hoa đàm, đuốc tuệ, tiền nhân, hậu quả... đều là những điển trong các Kinh Phật như Kinh Kim Cương, Pháp Hoa Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Truyền Đăng Lục... bên cạnh những từ ngữ của Lão giáo như: gió mát trăng thanh, thoát trần, cái thân ngoại vật, tiên,… đã làm cho tác phẩm khá phong phú về nghệ thuật.
Trong Cung oán ngân khúc, không gian chủ yếu là cảnh bưng bít của chốn tiêu phòng lạnh lẽo cùng thời gian chủ yếu là bóng đêm và mùa thu với sự hồi ức đã tạo nên một bức tranh vô cùng đen tối, ảm đạm, buồn bả. Thông qua những hình dung từ về xúc giác, thị giác được chọn lọc một cách chính xác làm cho người đọc có nhiều sự tưởng tượng khác nhau. Hơn thế nữa, tác phẩm còn gây ấn tượng cho người đọc bằng giọng văn réo rắt làm bật lên tâm trạng não nùng, ai oán của nhân vật trong khúc ngâm một cách tài tình.

KẾT LUẬN
Cung oán ngâm khúc là khát vọng muốn đạp đổ tất cả những áp bức bất công của chế độ phong kiến của cung nữ biểu hiện tinh thần phản kháng, căm hận tột cùng của con người trước thực tại buồn đau để có được sự tự do hạnh phúc. Nàng cung nữ mong muốn có được tình yêu thương giống như bao người phụ nữ bình thường khác. Đó là một lý do chính đáng mà bất cứ một người phụ nữ nào cũng ước mơ. Nhưng đối với nàng là một điều không thể với tới. Cung oán ngâm khúc còn phê phán quan niệm “trọng nam kinh nữ” thông qua việc đa thê của vua quan phong kiến đã biến phụ nữ thành đồ chơi rồi ruồng không thương tiếc.
Qua tác phẩm Cung oán ngâm khúc, Ôn Như Hầu đã dùng lời than oán của người cung nữ để bày tỏ tâm sự của một kẻ sĩ đã nhìn thấy cuộc đời đầy tang thương biến đổi với những thăng trầm mà chính ông là người đã sống trong thời đại lịch sử ấy. Tâm sự của Nguyễn Gia Thiều là tấm bi kịch tiềm tàng những mâu thuẫn nghiệt ngã đến nối ông muốn thoát khỏi sự bức bách đó để sống một cuộc đời siêu phàm thoát tục. Tâm sự của ông cũng chính là tâm sự của bao người trong xã hội đương thời khát khao có được một cuộc sống bình yên. Nhưng xã hội lại bế tắc làm cho bao nhiêu người đau khổ đến nỗi nhân phẩm con người bị chà đạp đến đau lòng. Ước mơ được yêu được sống tự do được hạnh phúc là ước mơ chung của tất cả mọi người nhưng đối với người cung nữ điều đó thật xa vời. Ôn Như Hầu cảm thương cho thân phận người cung nữ cũng như là cảm thương cho thân phận của bao nhiêu người phụ nữ khác và cũng chính là thương cho thân phận mình. Đây là tư tưởng nhân đạo mà Nguyễn Gia Thiều đã gởi gấm qua tác phẩm.
Với những quan niệm của Phật giáo, Lão Trang, Khổng Tử, Mạnh Tử đã làm cho tác phẩm đa dạng về tư tưởng làm nỗi bật lên triết lý hư vô dẫu biết cuộc đời là bể khổ, là bến mê, tất cả những hạnh phúc chỉ là phù du ảo ảnh nhưng vẫn hy vọng một ngày mai tươi sáng. Dù ước mơ không trở thành hiện thực thì con người vẫn phải sống và sống với những khát vọng của mình. Sống sao cho đúng nghĩa để không phải bị tiếng đời mai mĩa và không phải ân hận khi chết đi. Giống như nàng cung nữ dù có oán trách vua ruồng bỏ mình nhưng vẫn giữ một tấm lòng trung trinh không thay đổi dù có sống trong cảnh cô đơn nơi hoàng cung. Cũng vậy Nguyễn Gia Thiều cũng giữ một lòng trung thành với vua cho dù chế độ phong kiến có nhiều điều bất cập. Đây cũng chính là quan niệm sống của Nguyễn Gia Thiều và cũng là quan niệm sống của tầng lớp tri thức phong kiến lúc bấy giờ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đăng Thục, Triết lý xuất thế và nhập thế trong thi ca Việt Nam, www.newvietart.com.
2. Trần Văn Thương, Chất dân gian trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, www.vanchuongviet.org
3. Trần Mạnh Hảo, Cần trả lại giá trị đích thực cho kiệt tác “Cung oán ngâm khúc”, www.phiem-dam.com
4. Nguyễn Trọng Trí, Đôi điều về Phật giáo trong văn học Việt Nam, www.phapluanonline.com
5. Vũ Gia Khánh, Nguyễn Gia Thiều, tác giả Cung oán ngâm khúc,
6. Vân Uyên, Quan niệm về trời trong Cung oán ngâm khúc, www.giaoxuvnparis.org
7. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Nguyễn Gia Thiều, www.vi.wikipedia.org
8. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Cung oán ngâm khúc, www.vi.wikipedia.org



[1] Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Nguyễn Gia Thiều, www.wikipedia
[2] Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Nguyễn Gia Thiều, www.wikipedia
[3] Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Gia Thiều – tác giả Cung oán ngâm khúc
[4] Chú giải Cung oán ngâm khúc, NXB Tân Việt, http://tuoitrevnnet.com.invisionzone.com/index.php?showtopic=36241

[5] Chú giải Cung oán ngâm khúc, NXB Tân Việt, http://tuoitrevnnet.com.invisionzone.com/index.php?showtopic=36241
[6] Sđd
[7] Sđd
[8] Chú giải Cung oán ngâm khúc, NXB Tân Việt, http://tuoitrevnnet.com.invisionzone.com/index.php?showtopic=36241

[9] Câu chuyện Giấc mộng Nam Kha, http://vietnamese.cri.cn/chinaabc/chapter16/chapter160413.htm
[10] Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Gia Thiều – tác giả Cung oán ngâm khúc

[11] Lược điển chép trong Pháp Hoa Kinh, chú giải Cung oán ngâm khúc, NXB Tân Việt, http://tuoitrevnnet.com.invisionzone.com/index.php?showtopic=36241

[12] Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Gia Thiều – tác giả Cung oán ngâm khúc

Read more...

Đợi chờ - Thanh Lam

Một cõi đi về

Một mình - Thanh Tùng

Ôi quê tôi - Vũ Xuân Bắc

Đóa hoa vô thường (1)

Điệu buồn phương Nam

Mưa bay tháp cổ - Tùng Dương

Đóa hoa vô thường (2)

Như cánh vạc bay






  © Blogger templates ProBlogger Template by Ourblogtemplates.com 2008

Back to TOP