Xin hân hạnh giới thiệu đến vị quý 80 mã số nhạc chờ của Pháp Như trên Mobifone: 1 Ân cha mẹ như biển trời 50611055, 2 Ân cha mẹ như biển trời 5166917, 3 Bông hồng cài áo 50611062, 4 Bông hồng cài áo 5166918, 5 Bông hồng dâng cha 50611064, 6 Bông hồng dâng cha 5166919, 7 Bước chân Yên Tử 50611067, 8 Bước chân Yên Tử 5166920, 9 Chùa tôi 50611072, 10 Chùa tôi 5166921, 11 Còn thương rau đắng mọc sau hè 50611076, 12 Còn thương rau đắng mọc sau hè 5166922, 13 Đêm Pháp Hoa 50611080, 14 Đêm Pháp Hoa 5166923, 15 Diệu pháp 50611081, 16 Diệu pháp 5166924, 17 Diệu pháp âm 5166925, 18 Đời Tăng lữ 50611087, 19 Đời Tăng lữ 5166926, 20 Em đi trên cỏ non 50611089, 21 Em đi trên cỏ non 5166927, 22 Gánh hàng rong 50611092, 23 Gánh hàng rong 5166928, 24 Giấc mơ cánh cò 50611095, 25 Giấc mơ cánh cò 5166929, 26 Hoa kinh Bồ tát Khiêm Từ 50611097, 27 Hoa kinh Bồ tát Khiêm Từ 5166930, 28 Kinh cầu Mẹ Từ Bi 50611098, 29 Kinh cầu Mẹ Từ Bi 5166931, 30 Làng tôi 50611129, 31 Làng tôi 5166932, 32 Lạy Phật Quan Âm 50611128, 33 Lạy Phật Quân Âm 5166933, 34 Lời sám nguyện 50611126, 35 Lời sám nguyện 5166934, 36 Lời tạm biệt của người tìm đạo 50611124, 37 Lời tạm biệt của người tìm đạo 5166935, 38 Lòng mẹ 50611123, 39 Lòng mẹ 5166936, 40 Lục cúng dường 50611121, 41 Lục cúng dường 5166937, 42 Mẹ là Phật 50611119, 43 Mẹ là Phật 5166938, 44 Mẹ là vầng trăng 50611118, 45 Mẹ là vầng trăng 5166939, 46 Mẹ tôi 50611114, 47 Mẹ tôi 5166940, 48 Mẹ Từ Bi 50611110, 49 Mẹ Từ Bi 5166941, 50 Mùa duyên 50611107, 51 Mùa duyên 5166942, 52 Ngọn lửa tuổi hai 50611105, 53 Ngọn lửa tuổi hai 5166943, 54 Ống thổi lửa 50611103, 55 Ống thổi lửa 5166944, 56 Phật Hoàng Trần Nhân Tôn 50611100, 57 Phật là ánh từ quang 50611096, 58 Phật về 50611093, 59 Phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật 50611091, 60 Tạ ơn mẹ 50611090, 61 Tâm xuân 50611084, 62 Tâm xuân 5166945, 63 Thì thầm với nắng 50611083, 64 Thì thầm với nắng 5166946, 65 Thiền sư Chùa Đậu 50611078, 66 Thiền sư Chùa Đậu 5166947, 67 Thờ kính mẹ cha 50611075, 68 Thờ kinh mẹ cha 5166948, 69 Tiếp bước dấu chân xưa 50611073, 70 Tiếp bước dấu chân xưa 5166949, 71 Trăng tròn tháng tư 50611071, 72 Trăng tròn tháng tư 5166950, 73 Trở lại Bạc Liêu 50611070, 74 Trở lại Bạc Liêu 5166951, 75 Vì có Phật 50611069, 76 Ví có Phật 5166952, 77 Vu Lan nhớ mẹ 50611066, 78 Vu Lan nhớ mẹ 5166953, 79 Xuân trong cửa thiền 50611063, 80 Xuân trong cửa thiền 5166954, * Để chọn bài hát làm nhạc chờ trên mạng Mobifone:Soạn tin nhắn theo nội dung như sau: 1. Đăng ký sử dụng, soạn tin: DK gởi 92242. Cài đặt bài hát- Cài đặt bài hát: CHON masobaihat gởi 9224 Ví dụ: để tải bài Đời Tăng lữ bạn chỉ cần soạn: CHON 50611087 gởi 9224 - Gửi tặng: TANG mabaihat sodienthoainhan gởi 9224 Ví dụ: để tặng bài Đời Tăng lữ cho bạn bè bạn chỉ cần soạn: TANG 50611087 số điện thoại người nhận gởi 9224 Để biết thêm chi tiết xin vui lòng truy cập: http://www.mobifone.com.vn

Chủ Nhật, 25 tháng 1, 2009

Xuân trong cửa thiền

Sáng nay cành hoa mai nở

Báo tin mùa xuân đã về
Đêm qua chuông chùa ngân đổ
Xua tan mùa đông giá băng

Để én bay khắp khung trời
Để người vui bên mọi người
Mùa xuân đi qua từng góc phố
Xuân trong cửa thiền nụ cưởi an vui.

Ơ...tìm đâu trong cõi vô thường lòng người vẫn xanh
Mai vẫn nở dù đời có mong manh
Sương thấm lạnh mai càng thêm thắm
Tô điểm cho đời mùa xuân ngát xanh

Ơ...tìm đâu trong cuộc bể dâu
Chân lý diệu vời vang vọng khắp năm châu
Tâm Phật rạng ngời tình thương mến
Mang đến cho đời mùa xuân bất tận.

Gió đưa mùa hương chiên - đàn
Khoáng bay về nơi cuối trời
Chắp tay tâm thành khấn nguyện
Xin cho bình an khắp nơi

Để tiếng ca khắp khung trời
Để tình thương cho cuộc đời
Mùa xuân sang tâm hồn xao xuyến
Xuân trong cửa thiền nụ cười an nhiên

Mùa xuân sang tâm hồn xao xuyến
Xuân trong cửa thiền nụ cười an vui.
Pháp Như
Xin tặng mọi người ca khúc Xuân trong cửa thiền (Nhạc và lời: Pháp Như) qua tiếng hát của ca sĩ Mỹ Lệ và Pháp Như


Read more...

Thứ Năm, 15 tháng 1, 2009

Quốc Thiên đăng quang thần tượng âm nhạc 2008

Đêm công bố và trao giải Vietnam Idol 2008 đã kết thúc trong niềm hân hoan của người thắng cuộc và cả người thua cuộc. Với số phiếu cao hơn, Quốc Thiên đã lên ngôi Thần tượng âm nhạc Việt Nam 2008.

Trước giờ “G”
Ngoại cảnh nhà hát Hoà Bình được trang hoàng nổi bật bởi sắc đỏ phủ từng bậc thang. Người hâm mộ đến từ rất sớm giăng gần kín lối vào và tung hô thần tượng của mình trên vô số poster và banner cổ động. Không khí báo hiệu một đêm hội hoành tráng với một dàn sao khách mời bên cạnh những ngôi sao Idol đang chờ toả sáng. Trong sảnh nhà hát, một backdrop in hình finalist là Thanh Duy và Quốc Thiên cũng được khán giả vây kín.

20h30, thảm đỏ bắt đầu in dấu chân của những khách mời danh tiếng: nhà tài trợ, nhà sản xuất truyền hình - âm nhạc, nhạc sỹ, ca sỹ… và dòng lấp lánh cũng theo đó ùa vào nhà hát khi những thí sinh Top 10 Idol xuất hiện. Thanh Duy và Quốc Thiên được chào đón một cách nồng nhiệt hơn cả khi hầu hết khán giả tại nhà hát đều dành sự quan tâm đặc biệt đến sự thắng thua của Finalist.

Ngay từ những đêm Gala đầu tiên, nhà hát Hoà Bình chưa bao giờ trống ghế, và sự hồi hộp chờ đợi trong đêm đăng quang khiến khán giả vào sớm hơn mọi hôm rất nhiều. Đặc biệt nữ ca sỹ đang rất thành công trên con đường âm nhạc Hồ Ngọc Hà và những gương mặt của Music Faces đều hiện diện đông đủ trên hàng ghế khách mời thu hút báo giới ngay khi chưa bắt đầu. . Tất cả đã sẵn sàng cho việc đón nhận một ngôi sao mới…

Lấp lánh những ánh sao
Những đỉnh cao được nhắc lại, những ấn tượng được khắc ghi, những nụ cười ngày hội ngộ, những gương mặt dần thân quen,… tạo nên cả một khung trời lấp lánh.
Top 10 Idol mở màn bằng liên khúc Vẫn hoài ước mơ - Cho bạn cho tôi với 9 gương mặt đã được khán giả quen mặt là Minh Chuyên, Hoàng Anh, Giáp Lê Tuấn, Lan Trinh, Phi Trường, Thu Hà, Cẩm Tú, Thanh Duy và Quốc Thiên tạo nên không khí náo nhiệt ngay từ giây phút đầu của chương trình. Chỉ tiếc cô gái sôi động Duyên Anh vắng mặt nếu không hẳn có thêm những vũ đạo đầy quyến rũ. Nối tiếp hai ứng cử viên Idol lại hoá thân vào hình tượng chú hề trong Điệp khúc mùa xuân vui nhộn khiến hội trường không ngớt vỡ ra những tràng pháo tay sung mãn từ khán giả.
Ba cô gái đầy cá tính một lần nữa được hát cho khán giả nghe những ca khúc gây cảm tình nhất của mình trong cuộc thi. Lan Trinh da diết với Lạnh lùng, Cẩm Tú đau đáu với Tình khúc chiều mưa để Thu Hà ngây ngất với Ôi mê ly. Phi Trường và Lê Tuấn cũng một lần nữa được hát lại Áo Xanh cùng Quốc Thiên và Thanh Duy bằng những gợi nhắc về tình bạn khi đã bên nhau vào đến vòng chung kết. Nhưng có lẽ tiết mục song ca của Minh Chuyên - Hoàng Anh là giữ được sự yêu thích của khán giả nhiều nhất, khi hai người tình tứ và hát bằng tất cả khả năng của mình.
Top 2 Idol và Idol 2007 lần lượt hát lại những bài hát cũ lôi cuốn khán giả nhất của mình. “Son” của Quốc Thiên có vẻ đỡ hay hơn Gala 4, Thanh Duy vẫn hát “Tôi thích” trong bầu không khí phấn khích từ trên sân khấu xuống những hàng ghế khán giả. Phương Vy làm trầm lại khán phòng bằng Lúc mới yêu trong một thiết kế lồng đèn đỏ bắt mắt.
Và đỉnh điểm của đêm gala nằm ở những bất ngờ nối tiếp bất ngờ khi Quốc Thiên so giọng với Quang Dũng trong Một Mình đầy sâu lắng và phiêu diêu. Mr. Đàm chấp nhận làm nền nâng giọng Thanh Duy lên khi cùng song ca Giọt nước mắt cho đời bằng một tâm thế hết mình hát như ngày mai không còn được hát.
Đỉnh cao là bài hát trong mơ của bộ tam giám khảo. Một ca sĩ đẳng cấp - Siu Black, hòa nhịp cùng saxophone Trần Mạnh Tuấn, thêm dương cầm trắng của Hồ Hoài Anh, hát, diễn, thật lôi cuốn và ấn tượng. Đó là một sự kết hợp, nhuần nhuyễn kỳ diệu làm choáng ngợp tất cả những ai theo dõi đêm đăng quang Việtnam Idol.

Hạnh phúc vỡ òa
Kết quả không quá bất ngờ khi MC công bố kết quả. Quốc Thiên đã giành ngôi vị Idol 2008 một cách thuyết phục trước nụ cười chúc mừng rất đẹp của Thanh Duy. Ngôi sao mới trong bầu trời âm nhạc Việt Nam được xác nhận.
Nhưng hẳn rằng 9 thí sinh Idol còn lại ai cũng thấy mình là người thắng cuộc khi lọt vào Top 10 và quanh họ cũng đã có những ánh sáng lấp lánh giúp họ đến gần trái tim khán giả hơn. Chính vì thế tất cả cùng rạng ngời trong ca khúc “Nụ cười và những ước mơ” để chúc mừng ngôi vị mới của thần tượng âm nhạc. Tất cả họ đều còn rất trẻ và họ còn rất nhiều thời gian để kiếm tìm những ánh hào quang lấp lánh trong tương lai.
Khép lại một cuộc thi, là mở ra biết bao hy vọng và cơ hội cho những tài năng được toả sáng.

Hoàng Anh Vietnam Idol 2008
Hoàng AnhTrong con mắt của một Top 10 VietnamIdol, bạn định lượng thế nào về Thanh Duy và Quốc Thiên?
Mỗi người một sở trường, ngang tài ngang sức, nhưng mà khi khán giả bình chọn thì thuộc vào tình cảm, họ thấy người nào mình yêu thích hơn thì người ta sẽ bình chọn. Hoàng Anh nghĩ rằng và hy vọng rằng lần này khán giả lựa chọn đúng. Trước khi kết quả Idol được công bố, mình không chọn lựa ai vào vị trí số 1 cả, dù hai bạn được hay không được thì cũng đều là bạn của mình, vì tất cả anh em chơi với nhau rất là thân. Chính vì thế Hoàng Anh không bình chọn cho ai cả khi không thể đo xem tình cảm mình dành cho ai hơn ai.
Bạn đoán phong cách của Idol mới sẽ có sự phát triển thế nào trong thời gian sắp tới?
Quốc Thiên được khán giả bình chọn nhiều đã chứng tỏ Thiên được rất nhiều người thích. Nhưng con đường của một Idol cũng chỉ vừa mới bắt đầu, sẽ còn rất là xa và đi rất là cực, có sự tiếp sức của Musicfaces thì Thiên trước sau cũng đi vào con đường chuyên nghiệp, có thêm nhiều khán giả yêu thích hơn. Hoàng Anh nghĩ là Thiên rồi cũng sẽ có được những thành công cho riêng mình.
Trong hai người bạn đều thân, chỉ một người dành chiến thắng, Hoàng Anh có chia sẻ gì với người còn lại?
Thanh Duy là một người tốt trong phong cách và cả chất giọng lạ, dù không được ngôi sao may mắn chiếu sáng nhưng từ đầu đến giờ, Duy được rất nhiều người thích, rất nhiều người yêu, nhất là chị Siu, luôn luôn có những lời khen nhiệt tình cho Duy. Mặc dù không gặp may mắn nhưng Hoàng Anh nghĩ Duy đi đến đây cũng đã là người chiến thắng. Hoàng Anh cũng cảm thấy mình là người chiến thắng mặc dù không đi sâu vào được như Duy. Nhưng rõ ràng chúng mình đã vượt qua rất nhiều người mới vào được top 10, dù đã dừng bước trước Idol thì cũng không lo, bọn mình còn trẻ còn nhiều cơ hội.

Khán giả Vũ Sơn - Tp. Hồ Chí Minh
Vũ SơnMình thấy thú vị với phong cách biểu diễn của Thanh Duy, mỗi lần xuất hiện đều mang đến nét mới lạ cho khán giả. Nên đúng như Đàm Vĩnh Hưng nhận xét, nếu lựa chọn một hình tượng giải trí thì Thanh Duy hợp hơn so với Quốc Thiên. Nhưng kết quả lại chứng tỏ khán giả vẫn chọn cho mình một Idol hát tốt hơn là diễn tốt. Mình theo dõi Idol từ những vòng đầu, và cho đến đêm chung kết thì cũng không biết nên chọn ai làm Idol cả.
Thiên thì có giọng, Duy thì diễn tốt, nên mình cũng đã không bình chọn cho thí sinh nào. Bởi vì mình mong muốn có một Idol xứng đáng cả về giọng hát lẫn phong cách trình diễn. Mà ở trong một cuộc thi mang hơi hướm gameshow như này thì những gì các thí sinh thể hiện đã là quá tốt, không nên đòi hỏi quá cao, song do tên của chương trình mang một ý nghĩa quá hoành tráng, nó khiến cho khả năng và vị thế của các thí sinh trở nên nhỏ bé trong cách nhìn nhận của khán giả về hình tượng Idol.
Dù Thiên đạt ngôi vị quán quân, nhưng mình vẫn nghĩ Duy đang đứng ngang bằng ở điểm xuất phát hiện tại, khi cả hai cùng bước vào con đường hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp sau này. Suy nghĩ thế nên mình thấy cả hai bạn đều là người chiến thắng.

Hương Trà - Sinh viên Học viện Báo chí & Tuyên truyền; Top 20 Vietnam Idol
Hương TràKết quả này không nằm ngoài dự đoán của tôi. Sở hữu một giọng hát đẹp truyền cảm, phong cách giản dị mộc mạc, Quốc Thiên hoàn toàn có thể chinh phục khán giả mọi lứa tuổi, từ những cô cậu học trò trẻ tuổi với những ca khúc sôi động trẻ trung hay những tình khúc lãng mạn đến các khán giả trung niên với những tình khúc tiền chiến bay bổng, cổ điển.
Rõ ràng qua 10 Gala đã cho thấy sự tiến bộ không ngừng của Quốc Thiên. Vượt qua ấn tượng “nhàn nhạt” ban đầu vì sự “quá an toàn” trong cách hát, Thiên đã dần dần vận dụng sự sáng tạo nhiều hơn trong mỗi ca khúc, thử nghiệm ở nhiều thể loại, phong cách khác nhau, mặc dù không phải ở phong cách nhạc nào anh cũng tỏ ra xuất sắc, song ở anh khán giả thấy được sự dung hòa. Điều đó đã tạo nên phong độ ổn định cần thiết của một Thần tượng âm nhạc.
Dẫu vậy, với tư cách là đại diện của Việt Nam “mang chuông đi gõ xứ người” - Asian Idol - thì những gì Quốc Thiên thể hiện trong suốt chặng đường dài vừa rồi chưa đủ để thuyết phục những khán giả khó tính nhất. Người ta vẫn mong muốn thấy được ở Thiên sự phá cách, sự sáng tạo với một cá tính riêng biệt, trên nền tảng vững chắc là một giọng hát đẹp, kỹ thuật tốt, nhạc cảm tốt. Chiến thắng ở Vietnam Idol chỉ là một sự khởi đầu mà thôi, điều quan trọng là Thiên sẽ tận dụng những cơ hội mở ra trước mắt và phấn đấu như thế nào trong những hành trình sắp tới. Tôi tin là Thiên sẽ thành công.
Thanh Duy dừng lại ở ngôi Á quân cũng là một kết quả hợp lý bởi với ca sĩ nói chung và một thần tượng âm nhạc nói riêng quan trọng hơn hết vẫn là giọng hát. Chúng ta có thể thấy rõ sự cầu tiến và ý thức phấn đấu của Duy qua mỗi vòng thi, và hoàn toàn có thể hi vọng con đường âm nhạc của Duy sẽ còn tiến xa hơn nữa sau “bệ phóng” Vietnam Idol lần này.
Tùng Huy - Keng - Hà Nam (Thực hiện) - Ảnh Hà Nam (Theo Việt Báo)

Read more...

Ca sĩ hải ngoại về hát tết

Có thể nói chưa khi nào mà ca sĩ hải ngoại lại tấp nập về VN phục vụ cho các chương trình Tết và hát mừng xuân mới như năm nay.

Không chỉ hát phục vụ một số chương trình chào đón xuân mới vào những ngày cuối năm như thế này, các ca sĩ hải ngoại như Lệ Thu, Đức Huy, Tuấn Ngọc, Khánh Hà, Thái Châu, Bích Chiêu, Kim Anh, Phi Nhung, Mai Quốc Huy… còn chuẩn bị đón một cái Tết thật ý nghĩa, thật ấm cúng bên người thân, gia đình và nhất là để hát phục vụ khán giả trên quê hương.

Nhắc đến một số đêm nhạc mừng xuân, ca sĩ Ái Vân, Thanh Hà, Tommy Ngô, Lynda Trang Đài, Nhật Hạ... là những ca sĩ có mặt từ rất sớm tại Việt Nam. Không khí mùa xuân dường như đã tiếp thêm sức mạnh để họ xuất hiện thật sự ấn tượng trong nhiều show ca nhạc chuẩn bị đón Tết năm nay.

Ca sĩ Tommy Ngô - Lynda Trang Đài sau đêm diễn tại Sân khấu Trống Đồng, TP.HCM (ngày 15.1) sẽ tiếp tục đem tiếng hát của mình phục vụ khán giả vào 2 ngày 18, 19.1 tại Phòng trà Không Tên, TP.HCM. Cũng ở Không Tên, ca sĩ Phi Nhung dành một đêm nhạc đặc biệt gửi đến người yêu nhạc trong không khí cận kề Tết như thế này vào ngày 20.1. Còn ca sĩ Ái Vân chọn Phòng trà Văn Nghệ (TP.HCM) vào đêm 18.1 để giới thiệu các ca khúc sở trường của mình như: Triệu đóa hồng, Như đã dấu yêu, Đừng xa em đêm nay…

Một trong những người có tâm trạng phấn khởi vì đã lâu lắm rồi anh mới có dịp hát đúng vào những ngày Tết cổ truyền dân tộc là ca sĩ Tuấn Ngọc. Theo đúng kế hoạch, Tuấn Ngọc và Khánh Hà sẽ có một đêm diễn thật đặc biệt tại khách sạn Sheraton, TP.HCM trong chương trình Gala dinner của Công ty bảo hiểm ACE Life Việt Nam vào ngày 18.1.

Tiếp đến vào ngày 28, 29.1 (tức mùng ba, mùng bốn Tết), một liveshow cùng với chị gái Bích Chiêu mang tên Nỗi lòng của anh sẽ diễn ra tại Phòng trà Văn Nghệ, TP.HCM với các ca khúc như: Mắt lệ cho người, Rong rêu, Khúc thụy du, Buồn, Phôi pha, Linh hồn tượng đá, Chiều một mình qua phố, Lá thư, Riêng một góc trời... Cũng tại phòng trà này, ca sĩ Lệ Thu sẽ phục vụ những người yêu tiếng hát của chị vào đúng ngày mùng một, mùng hai Tết với các ca khúc như Hương xưa, Hoài cảm, Nửa hồn thương đau, Mắt lệ cho người…

Mang tâm trạng phấn khởi vì ở lại Việt Nam đón xuân là ca sĩ - nhạc sĩ Đức Huy. Đã hơn 3 năm trôi qua, giờ đây anh lại được đón không khí Tết đúng nghĩa trên quê hương. Điều thú vị của Đức Huy là đêm giao thừa anh được có mặt ở Hà Nội trong một đêm nhạc ở Phòng trà Hồ Gươm Xanh. Anh tâm sự: “Hà Nội lúc này lạnh lắm và chắc chắn đêm giao thừa lại càng lạnh hơn nhưng trái tim tôi thật ấm. Tôi vui và thật sự hạnh phúc vì giờ đây mình như một ca sĩ trong nước đúng nghĩa đón chào mùa xuân trên quê hương”.

Sau Hà Nội, anh sẽ xuống Hải Phòng, rồi về Phan Thiết (Bình Thuận) phục vụ bà con vui xuân vào ngày mùng ba. Còn ca sĩ Thái Châu cũng chuẩn bị sức khỏe và cả kế hoạch vui xuân để ngày mùng một, mùng hai gặp khán giả tại Phòng trà Không Tên, TP.HCM.

Với những gì mà ca sĩ hải ngoại đã và đang chuẩn bị cho kế hoạch Tết năm nay, hy vọng làng ca nhạc nước nhà sẽ có thêm một làn gió mới thật sự thú vị cho những ngày xuân Kỷ Sửu 2009.

Dạ Ly (Theo thanhnienonline)

Read more...

Thứ Tư, 14 tháng 1, 2009

Vài nét về trường Đại học Hoa Phạn thành phố Đài Bắc, Đài Loan

Trường được sáng lập vào năm Dân Quốc 79 (1990), lấy tên là Học Viện công nghệ Hoa Phạn, năm Dân Quốc 82 đổi tên là Học Viện Khoa Học Kỹ Thuật Nhân Văn Hoa Phạn, năm Dân Quốc 86 được sự chấp nhận của Bộ giáo dục và đổi tên là Đại học Hoa Phạn.


Người sáng lập là Pháp sư Hiểu Vân, là một Tỳ kheo Ni đạo cao đức trọng, Sư vừa là nhà giáo dục, nhà tông giáo và nhà nghệ thuật, Sư luôn đề cao coi trọng đức dục, và giáo dục tánh giác. Trường sở dĩ lấy tên là Hoa Phạn vì muốn xiển dương năm ngàn năm văn hóa Trung Hoa và hai ngàn năm tư tưởng Phật giáo Trung Quốc, mục đích dùng kỹ thuật chuyên nghiệp phục vụ nhân loại, lấy phẩm đức cao thượng để dẫn dắt xã hội.

Cơ cấu:

* Viện Công nghệ gồm:
-Khoa Công trình cơ điện (bao gồm Cử nhân, Thạc sỹ, Tiến sỹ)
-Khoa công trình điện tử (bao gồm Cử nhân, Thạc sỹ)
-Khoa kinh doanh và công nghiệp (bao gồm Cử nhân, Thạc sỹ)
-Khoa quản lý thông tin (bao gồm Cử nhân, Thạc sỹ)

*Viện Văn học:
-Sở nghiên cứu tư tưởng nhân văn phương Đông ( Thạc sỹ, Tiến sỹ)
-Khoa Trung Văn (bao gồm Cử nhân, Thạc sỹ)
-Khoa Ngoại ngữ (bao gồm Cử nhân, Thạc sỹ)
-Khoa Triết học (lớp thạc sỹ )

*Viện Nghệ thuật thiết kế:
- Khoa Kiến Trúc (bao gồm Cử nhân, Thạc sỹ)
- Khoa Thiết kế công nghiệp (bao gồm Cử nhân, Thạc sỹ)
- Khoa Mỹ thuật (bao gồm Cử nhân, Thạc sỹ)
- Khoa Thiết kế Bảo vệ môi trường (bao gồm Cử nhân, Thạc sỹ)

*Viện Nghiên cứu Phật học:
-Khoa Phật học (chỉ có Cử nhân)

Mục tiêu của Trường:

1. Dung hòa giữa nhân văn và khoa học kỹ thuật, giữa từ bi và trí tuệ.
2. Lấy cảnh quang làm môi trường giáo dục, sống hòa hợp với môi trường tự nhiên.
3. Coi trọng cả lý luận và thực tiễn, nghiên cứu đi kèm với thực tập.
4. Bảo hộ môi trường và tài nguyên thiên nhiên.

Thời gian học:

Đại học: 4 năm
Thạc sĩ :1-4 năm
Tiến sĩ: 3-5 năm

Điều kiện dự học của học sinh ngoại quốc

*Cấp Đại học:
- Phải có vốn ngôn ngữ tiếng Trung để có thể nghe nói
- Bằng tú tài, và dự kỳ xét tuyển của trường.

*Cấp Thạc sỹ:
- Phải có bằng Đại học, và trải qua kỳ xét tuyển của trường.

*Cấp Tiến sỹ:
- Phải có bằng Thạc sỹ, và trải qua kỳ xét tuyển của trường.

Mỗi năm vào 30-2 đến 30-5 là thời gian nhận hồ sơ xét tuyển. Nếu học sinh được xét tuyển thì sẽ làm thủ tục nhập học vào cuối tháng 7.

Hồ sơ dự xét tuyển gồm:

-Bằng cao nhất của mỗi cấp học, dịch ra tiếng Anh hoặc tiếng Hoa.
-Bảng điểm (dịch ra tiếng Anh hoặc tiếng Hoa.)
-Giấy chứng minh tài khoản (khoảng 40 triệu.)

Cả ba giấy này đều được đóng dấu của Đại sứ quán Đài Bắc tại Việt Nam.

- Đơn xin xét tuyển thì phải vào trang web của trường để download.( http://www.hfu.edu.tw/)

Tin & ảnh: Hạnh Giải (Nguồn www.hoalinhthoai.com

Read more...

Ấm áp nghĩa tình Xuân

TP. Hồ Chí Minh --- Sáng 14/1, Câu lạc bộ Hoằng Pháp Trẻ (CLB HPT) cùng một số Phật tử mạnh thường quân đã thăm và tặng 100 phần quà cho các bệnh nhân nghèo của Bệnh Viện Huyết Học, Quận 1, Thành Phố Hồ Chí Minh.

Trong hoạt động này, ngoài việc tặng quà, các thành viên của CLB HPT cũng như quý Phật tử trong đoàn đã thăm hỏi, động viên, chia sẻ những nỗi khổ niềm vui với các bệnh nhân.

Tuy trị giá mỗi phần quà không lớn nhưng đó là tất cả tấm lòng của mọi người, thể hiện tinh thần từ bi của đạo Phật, tạo thêm niềm tin sức sống cho những con người đang phải đối mặt với cơn đau hành hạ mỗi ngày, trong đó có các em thiếu nhi rất dễ thương.

Được biết, trước đó CLB HPT đã có một chuyến từ thiện tặng 300 phần quà cho các gia đình khó khăn tại huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.

Đây là lần đầu tiên CLB HPT thực hiện việc trao tặng quà tết cho các bệnh nhân nghèo tại bệnh viện.
Tin & ảnh: Tuệ Minh

Read more...

Thứ Bảy, 10 tháng 1, 2009

Chủ nghĩa Duy lý trong Triết học Descartes

DẪN NHẬP
Nền triết học phương Tây ra đời vào giai đoạn 600 – 430 trước Công nguyên và trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm cùng với lịch sử của nhân loại. Tuy nhiên đến thời Descartes triết học đã bước sang một giai đoạn mới. “Hegel, nhà triết học Đức đã đánh giá vai trò triết học của Descartes là “đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học” Tây Âu thời Cận đại. Có nghĩa là “Ông đã tạo ra một bước rẽ, một bước ngoặt trong hành trình phát triển của triết học Tây Âu.” Sự ảnh hưởng không nhỏ bởi dòng tư tưởng triết học duy lý của René Descartes là một thành tựu tư tưởng lớn không chỉ của nước Pháp thế kỷ XVII mà còn của cả nhân loại, trở thành một phong cách, một lối sống đặc trưng cho xã hội Tây phương .

Trong suốt dòng lịch sử triết học nhân loại, nhất là nền triết học phương Tây, người ta khó tìm thấy được nơi bất cứ một triết gia nào khác đã có được một câu nói có thể đi sâu vào ý thức của tầng lớp đại chúng, dù thuộc về triết học hay không, như câu nói “Cogito ergo sum” (Tôi tư duy nên tôi hiện hữu; nghĩa là: Vì tôi tư duy nên tôi biết mình hiện hữu) của nhà triết học René Descartes. “Tôi tư duy tức là tôi hiện hữu” – câu nói bất hủ và cũng là nguyên lý chính trong học thuyết của ông - triết học duy lý với tinh thần hoài nghi – một nguyên lý triết học đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong lối tư duy lý tính của người phương Tây, thậm chí trở thành một phong cách sống của con người hiện đại. Chính vì thế mà người viết đã chọn đề tài “chủ nghĩa duy lý trong triết học Descartes” cho bài viết của mình.

Tuy nhiên, với những giới hạn nhất định của một bài viết không phải là một bài khảo cứu chuyên ngành nên sự cho phép ở đây chỉ được giới hạn trong những điểm cơ bản nhất về chủ nghĩa duy lý của Descartes trong triết học. Về phương pháp nghiên cứu người viết bài này dùng phương pháp mô tả, phân tích lại những tài liệu đã có sẵn, bên cạnh đó cũng sử dụng phương pháp khác như nhận định để hỗ trợ cho bài viết thêm sinh động, linh hoạt để làm sáng tỏ đề tài. Vì sự hiểu biết còn hạn chế và tư duy còn kém cỏi trong bài viết không sao tránh khỏi những thiếu xót, người viết mong nhận được những lời góp ý chân thành từ bạn đọc để làm kinh nghiệm cho những bài viết sau được tốt hơn. Nhưng dẫu sao đôi dòng trong bài viết cũng giúp ích một chút nào đó cho mọi người trong cuộc sống và thêm yêu mến triết học Descartes.

NỘI DUNG
1. KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT GIA RENÉ DESCARTES
1.1. Tiểu sử
René Descartes (1596–1650) là triết gia, nhà khoa học, nhà toán học người Pháp, ông được một số người xem là cha đẻ của chủ nghĩa duy lý cận đại, cha đẻ của triết học hiện đại. Ông sinh tại La Haye, Touraine (trước đây là một tỉnh, nay gọi là một vùng của Pháp), Descartes là con của một gia đình quý tộc nhỏ, có truyền thống khoa bảng. Lên tám tuổi, ông được gửi theo học tại trường học của Dòng Tên (Jesuits) tại La Flèche ở Anjou, ông học ở đây suốt 8 năm. Bên cạnh những môn học cổ điển, Descartes còn học toán ở các thầy theo trường phái Kinh viện, một học phái chủ trương dùng lý luận của loài người để hiểu lý thuyết Ky Tô giáo. Thiên Chúa giáo La Mã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến suốt cuộc đời Descartes. Sau khi ra trường, ông theo học luật tại Đại học Poitiers, tốt nghiệp năm 1616. Tuy vậy, ông chưa hề hành nghề luật; năm 1618 ông phục vụ cho Hoàng tử Maurice de Nassau, nhà lãnh đạo của Liên hiệp các tỉnh Hà Lan, với ý định theo đuổi một cuộc đời binh nghiệp. Những năm tiếp theo, Descartes phục vụ các quân đội khác, nhưng ông đã bắt đầu tập trung vào toán học và triết học. Ông hành hương sang đất Ý từ năm 1623 đến 1624, sau đó từ 1624 đến 1628, ông ở Pháp. Trong thời gian ở Pháp, Descartes chuyên tâm nghiên cứu triết học và làm các thí nghiệm về quang học. Năm 1628, sau khi bán hết tài sản ở Pháp, ông chuyển sang sống ở Hà Lan, và sống hầu hết quãng đời còn lại ở xứ hoa tuylip. Descartes sống ở nhiều thành phố khác nhau của Hà Lan, như Amsterdam, Deventer, Utrecht, và Leiden.

Dường như trong năm đầu tiên ở Hà Lan, Descartes đã viết tác phẩm lớn đầu tiên, Essais philosophiques (Các tiểu luận triết học), xuất bản năm 1637. Tác phẩm gồm bốn phần: một tiểu luận về hình học, một về quang học, phần thứ ba về sao băng, và Discours de la méthode (Bàn luận về phương pháp), trong đó ông trình bày các nghiên cứu triết học của mình. Sau đó lần lượt ra đời các tác phẩm khác, có thể kể ra Meditationes de Prima Philosophia (Suy ngẫm về Triết học Tiên khởi, năm 1641, viết lại năm 1642) và Principia Philosophiae (Các nguyên lý triết học, năm 1644). Cuốn sau này ông dành tặng cho Công chúa Elizabeth Stuart xứ Bohemia, một người bạn thân thiết của ông ở Hà Lan. Năm 1649 Nữ Hoàng Christina nước Thụy Điển mời Descartes đến giảng dạy cho bà về triết học tại triều đình ở Stockholm. Cái lạnh khắc nghiệt của xứ Bắc Âu đã làm ông mắc bệnh viêm phổi và qua đời năm 1650.

Sau khi ông mất, giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã đã liệt các tác phẩm của ông vào danh sách những sách cấm.

1.2. Những đóng góp của triết gia Descartes
1.2.1. Khoa học
Sau thời Trung cổ, ở Tây Âu trí tuệ vẫn tiếp tục phải chịu ảnh hưởng của hai thiên kiến đó là: sự ấn định của nhà thờ thông qua những tín niệm trở thành những chân lý bất di bất dịch và sự thống trị của Aristote về mặt học thuật. Những điều răn dạy của nhà thờ và của các triết gia trước kia không còn hấp dẫn ông và ông đã đạp dổ chúng để xây dựng một ngôi nhà triết học mới. Ông có nhiều giải thích sai lầm về các hiện tượng vật lý. Tuy nhiên, các giải thích đó cũng có một giá trị nhất định, vì ông đã dùng những giải thích cơ học thay cho những quan điểm tinh thần mơ hồ của các tác giả đi trước. Ban đầu Descartes đã công nhận thuyết Copernic về hệ thống vũ trụ trong đó các hành tinh xoay quanh Mặt Trời, nhưng ông đã từ bỏ nó chỉ vì giáo hội Thiên Chúa La Mã phán rằng thuyết đó tà đạo. Thay vào đó ông đưa ra lý thuyết dòng xoáy – cho rằng vũ trụ được lấp đầy vật chất, ở các trạng thái khác nhau, xoáy quanh mặt trời.

Trong lĩnh vực sinh lý học, Descartes giữ quan điểm rằng máu là một chất lỏng tinh tế mà ông gọi là hồn của động vật. Ông tin rằng hồn động vật tiếp xúc với chất suy nghĩ ở trong não và chảy dọc theo các dây thần kinh để điều khiển cơ bắp và các phần khác của cơ thể.

Về quang học, Descartes đã khám phá ra định luật cơ bản của sự phản xạ: góc tới bằng góc phản xạ. Tiểu luận của ông là văn bản đầu tiên trình bày đề cập đến định luật này. Việc Descartes xem ánh sáng như một thứ áp lực trên môi trường chất rắn đã dẫn đường cho lý thuyết sóng của ánh sáng.

1.2.2. Toán học
Sự đóng góp về toán học có vai trò quan trọng trong tư tưởng của Descartes. Đối với ông cũng như đối với Galileo (1564-1642), toán học là ngôn ngữ của tự nhiên. Descartes sáng tạo ra hình học giải tích, cho phép ông mô tả bằng phương trình các hình hình học như hình tròn hay hình tam giác. Ông là nhà toán học đầu tiên phân loại các đường cong dựa theo tính chất của các phương trình tạo nên chúng. Ông cũng có những đóng góp vào lý thuyết về các đẳng thức. Descartes cũng là người đầu tiên dùng các chữ cái cuối cùng của bảng chữ cái để chỉ các ẩn số và dùng các chữ cái đầu tiên của bảng chữ cái để chỉ các giá trị đã biết. Ông cũng đã sáng tạo ra hệ thống ký hiệu để mô tả lũy thừa của các số (chẳng hạn trong biểu thức x²). Mặc khác, chính ông đã thiết lập ra phương pháp, gọi là phương pháp dấu hiệu Descartes, để tìm số nghiệm âm, dương của bất cứ phương trình đại số nào. Ông tin vào sự thống nhất cơ bản của các khoa học, ông coi các khoa học, cũng như toán học, phần lớn đều có thể được suy ra bằng lý trí thuần túy. Ở điểm này, ông đi ngược lại với Kepler và Galileo, hai nhà khoa học này nhấn mạnh sự cần thiết phải quan sát và thực nghiệm để giải mã các bí mật của tự nhiên, nhưng đồng thời không hề phủ nhận vai trò cơ bản của toán học. Như vậy Descartes là biểu tượng của “chủ nghĩa duy lý”.

1.2.3. Triết học
Triết học hiện đại thường được xem là được khởi đầu từ nghiên cứu của René Descartes. Nghiên cứu của ông đã chịu ảnh hưởng lớn từ các trao đổi của ông với các nhà triết học khác. Ví dụ, sự thúc giục của Pierre Gassendi và Công chúa Elizabeth xứ Bohemia đã làm Descartes cố gắng thiết lập các câu trả lời có sức thuyết phục hơn cho vấn đề tâm-thân (mind-body problem).
Descartes muốn áp dụng phương pháp quy nạp hợp lý của khoa học, nhất là của toán học, vào triết học. Trước đó, triết học bị chi phối bởi phương pháp của phái Kinh viện, vốn hoàn toàn dựa theo sự so sánh và đối chiếu với quan điểm của nhà cầm quyền. Bác bỏ phương pháp này, Descartes cho rằng "Trong khi tìm kiếm con đường thẳng đi đến chân lý, chúng ta không cần phải quan tâm tới những gì mà chúng ta không thể thấu đáo một cách chắc chắn như việc chứng minh bằng đại số và hình học". Qua đó ông chỉ ra rằng "không điều gì được xem là đúng cho đến khi nền tảng để tin rằng nó đúng được thiết lập". Sự chắc chắn duy nhất làm điểm xuất phát cho các nghiên cứu của ông được ông bày tỏ bằng câu nói nổi tiếng "Cogito, ergo sum", (tiếng Latinh, "Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại"). Từ tiên đề cho rằng ý thức rõ ràng về tư duy của ông chứng minh rằng ông tồn tại, Descartes kết luận là Chúa tồn tại. Chúa, theo triết học Descartes, đã tạo ra hai loại chất để tạo nên toàn bộ vạn vật. Loại thứ nhất là chất suy nghĩ, tức tinh thần, loại thứ hai là các chất mở rộng, tức thân thể.

Trong tiếng Pháp, tính từ cartésien (hoặc cartésienne - dạng giống cái) dùng để chỉ những nhân cách có xu hướng tư duy logic hơn là cả tin. Cartésien có từ nguyên là tên của Descartes. Tiếng Anh cũng có tính từ cartesian với ý nghĩa tương đương.

2. CHỦ NGHĨA DUY LÝ TRONG TRIẾT HỌC DESCARTES
2.1. Chủ nghĩa duy lý của các triết gia trước Descartes
Đến cuối thế kỷ XVII, chủ nghĩa Aristote mất dần ảnh hưởng và suy tàn. Lúc này nhu cầu xem xét lại toàn bộ hệ tư tưởng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết và René Descartes là người đóng vai trò tiên phong trong cuộc cách mạng về quan niệm này.
"Chủ nghĩa duy lý" nhấn mạnh vai trò của lý trí con người. Chủ nghĩa duy lý cực đoan tìm mọi cách để gán tất cả kiến thức con người lên nền tảng độc nhất là lý trí. Kiểu lý luận điển hình của chủ nghĩa duy lý bắt đầu bằng những tiên đề không thể chối cãi rành rọt được, để từ đó, bằng các bước logic, diễn dịch ra mọi đối tượng kiến thức có thể có.

Parmenides (sinh năm 510 TCN) được cho là nhà triết học duy lý đầu tiên, người đã tranh luận rằng việc suy nghĩ thực sự có xảy ra là không thể hoài nghi, mà việc suy nghĩ phải có đối tượng suy nghĩ, do đó, một sự vật phải thật sự tồn tại. Parmenides diễn dịch rằng những gì thật sự tồn tại phải có những tính chất nhất định– thí dụ như, nó không thể bắt đầu tồn tại hoặc chấm dứt tồn tại, nó là một chỉnh thể trọn vẹn, nó giữ nguyên bản chất vĩnh viễn (đúng hơn là tồn tại hoàn toàn bên ngoài thời gian).

Zeno (sinh năm 489 TCN) là học trò của Parmenides, đã tranh luận rằng sự vận động là bất khả thi, và chứa đựng sự mâu thuẫn. Plato (427-347) cũng bị ảnh hưởng bởi Parmenides, nhưng ông đã kết hợp chủ nghĩa duy lý với một dạng của chủ nghĩa hiện thực. Triết gia này đã cất công xem xét sự tồn tại và bản chất của sự vật. Ông kết luận đặc tính của những bản chất sự vật là chúng mang tính chung trên toàn cầu. Bản chất của một con người, của một hình tam giác, của một cái cây có thể áp dụng cho tất cả con người, tất cả hình tam giác và tất cả các loại cây. Plato tranh luận rằng những bản chất này là những hình thái không phụ thuộc vào trí não, rằng con người có thể biết đến chúng bằng lý trí và bằng cách làm ngơ trước những thứ làm phân tâm do giác quan gây ra.

2.2. Chủ nghĩa duy lý của Descartes
Chủ nghĩa duy lý hiện đại bắt đầu với Réne Descartes, vứt bỏ hệ thống thế giá và thẩm quyền của triết học kinh viện, Descartes bắt đầu với sự hoài nghi mọi cái, kể cả những gì ông trải nghiệm vì ông cho rằng các giác quan thường đánh lừa ông. Nhưng có một cái ông không thể hoài nghi, đó là chính sự hoài nghi. Ðây là cốt lõi được ông trình bày trong câu nói danh tiếng của mình: Cogito, ergo sum: Je pense dons je suis: Tôi suy nghĩ tức là tôi hiện hữu. Ông nghiền ngẫm về bản chất của trải nghiệm tri giác, cũng như những khám phá khoa học trong sinh lý học và quang học, Descartes (và cả John Locke) đã đi đến quan điểm rằng chúng ta trực tiếp ý thức được ý nghĩ, chứ không phải sự vật. Quan điểm này làm nảy sinh ba vấn đề.

1. Có phải các ý nghĩ là bản sao thực thụ của những sự vật, sự việc mà chúng đại diện? Cảm giác không phải là sự tương tác trực tiếp giữa các vật thể và ý thức của ta, mà nó là quá trình sinh lý bao hàm sự đại diện (thí dụ như, một hình ảnh trên võng mạc). Locke nghĩ rằng một "tính chất phụ", như cảm giác thấy màu xanh lục, không thể nào giống sự sắp xếp các phân tử vật chất sinh ra cảm giác đó, dù là ông cũng nghĩ "những tính chất chính" như hình dạng, kích thước, con số, thực sự có trong các sự vật.

2. Ta vẫn chưa rõ làm thế nào những vật thể tự nhiên như bàn, ghế hoặc ngay cả những quá trình sinh lý trong não bộ có thể sản sinh ra những thứ thuộc về tinh thần như ý nghĩ. Điều này là một trong những vướng mắc của một vấn đề triết học nổi tiếng, vấn đề tinh thần-cơ thể.

3. Nếu tất cả những gì chúng ta ý thức được chỉ là ý nghĩ, vậy làm sao ta có thể biết được có thứ gì khác tồn tại ngoài ý nghĩ ra?

Descartes đã nỗ lực giải quyết vấn đề cuối cùng bằng lý luận. Ông chấm dứt những quan niểm của các triết gia trước đó, ông không tin rằng những quan niệm về triết học của các triết gia trước đây là những gia bảo. Ông phá đổ những gì của nền triết học cổ đại, ông đã xây dựng cái mới trên một cái nền mới hoàn toàn. Ông mở đầu cuộc cách mạng triết học mới và Immanuel Kant là người kết thúc tư tưởng triết học của ông. Kant đã đi theo "Chủ nghĩa lý tưởng", chủ nghĩa ấy là một học thuyết cho rằng hiện thực là hoàn toàn giới hạn bởi đầu óc của chúng ta. Mặc dù nó phụ thuộc vào quan điểm của Réne Descartes rằng những gì có trong đầu chúng ta được biết trước những điều được biết thông qua các giác quan.

Descartes đã bắt đầu bằng một nguyên lý mà ông nghĩ là không thể bắt bẻ hiệu quả được: Tôi "biết suy nghĩ", do đó tôi "tồn tại". Từ tính chất chắc chắn do sự hiện hữu của hữu thể tư duy, ông tiến hành xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh về kiến thức, ông đã lần bước tới sự hiện hữu của Thượng đế. Ông biện hộ cho sự hiện hữu ấy bằng cách đưa ra bằng chứng dựa trên luận cứ mang tính bản thể luận của Anselm và bằng chứng dựa trên nguyên nhân đệ nhất, cái chắc chắn tạo ra trong người tư duy ý tưởng về Thượng đế. Như thế, trong khi đạt tới sự hiện hữu của Thượng đế, Descartes cũng với tới thực tại của thế giới vật lý thông qua Thượng đế. Do đó, thế giới ngoại tại mà chúng ta đang tri giác phải hiện hữu. Như thế, Descartes rơi trở lại sự chấp nhận là thật những cái được chúng ta tri giác một cách rõ rệt và riêng biệt. Và ông nghiên cứu thế giới vật chất bằng cách tri giác các nối kết của nó. Ông nhìn thế giới vật chất như có tính máy móc chủ nghĩa, hoàn toàn cách ly với tâm trí, cái độc nhất nối kết giữa hai hữu thể bằng sự can thiệp của Thượng đế. Tới ngang đây, quan điểm của Descartes gần như hoàn toàn mang tính nhị nguyên luận.

Triết học Descartes đánh dấu một bước ngoặc của tư tưởng con người đối với vũ trụ, đối với trời đất và chính mình. Descartes đã thay đổi quan điểm triết lý về thiên nhiên bằng triết lý về tinh thần. Những gì về thiên nhiên, về hoạt động khoa học như toán học, vậy lý là phạm trù của khoa học, chỉ có tinh thần là thuộc về triết học mà thôi . Các triết gia xưa đã đưa toán học, vật lý học và tinh thần là phạm trù của triết học nhưng đến thời của Descartes thì triết học chỉ là tinh thần chứ không có toán học và vật lý học nữa và nó không còn là phạm trù của triết học. Descar đã gặt bỏ những điều trước đây và bắt đầu hình thành triết học con người hay triết học tinh thần. “Tôi tư duy tức tôi tồn tại”, quan điểm của ông đã thu hút được những triết gia như Baruch Spinoza, Gottfried Leibniz và Christian Wolff.

Chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy cơ do ông phát minh ra và triết học dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy lý. Từ thời triết học cổ đại Hy Lạp cho đến Platon, Aristote cũng lấy thế giới là nền tảng của sự nghiên cứu nhưng đến thời của Descartes ông lại lấy Cogito làm nền tảng cho sự nghiên cứu của mình. Cogito là hành vi suy tưởng của con người làm nền tảng bởi vì con người là sự hợp tác của thể xác và tinh thần. Ở đây ông chỉ đề cập đến tinh thần mà không đề cập đến thể xác: “Tôi là một yếu tố tinh thần thuần tuý , tôi hiện hữu không cần có nơi cư ngụ sinh hoạt và tôi cũng không cần phải nhập vào thể xác nào”. Ông xem thể xác như là một cái máy và thể xác cũng chỉ là vật lý thôi còn tinh thần dù không nương tựa vào đâu cũng hoạt động được: “Không có thân xác thì con người cũng là mình không hơn không kém”. Tuy nhiên quan niệm của ông sau này bị Hobber phê phán. “Cogito này cũng là biểu hiện sai lầm của Descartes là đã chứng minh sự tồn tại của con người bằng tư duy. Tư duy tồn tại hoàn toàn tách biệt với chủ thể.” Phải chăng ông quá đề cập đến tư duy mà quên đi phần vật chất (tức thể xác) vì con người được tồn tại do sự hiện hữu của thân và tâm nếu như không có thân thì tư duy chỉ là một cái gì đó lơ lững không định hướng.

Tuy vậy, chúng ta không thể hiểu câu nói của Descartes về “Tôi tư duy” là tôn vinh bản ngã, coi bản ngã là có thật. Thật sự trong trường hợp này “tôi” (ngã) không giống như thuyết vô ngã mà Đức Phật đã nói mà ông chỉ ngụ ý là sự tư duy là thật. Ông từng viết: “Trước đây tôi đã tưởng tôi là gì? Tự nhiên tôi đã tưởng tôi là một con người. Nhưng người là gì?...Tôi tự coi mình như có bộ mặt, những bàn tay, những cánh tay và tất cả bộ máy bằng xương bằng thịt, và tôi gọi cái máy này bằng thân thể.” Tuy nhiên Descartes là xây dựng hệ tư tưởng của ông dựa trên sự nghi ngờ: tất cả đều phải được xem xét lại, vì các giác quan của chúng ta đều có thể bị nhầm lẫn. Xét cho cùng, trong giấc mơ chúng ta thấy các vật cũng thật như khi chúng ta thức. Nhưng, theo Descartes, ít nhất có một điều không thể bị xem xét lại, đó là bản thân việc mình đang nghi ngờ. Khi nghi ngờ, cần phải tư duy, bởi vì tư duy, nên phải tồn tại với tư cách là người tư duy. Từ đó có câu nói nổi tiếng: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”, mở đầu cho tác phẩm Luận về phương pháp xuất bản năm 1636 và được dùng làm dẫn nhập cho các tiểu luận của ông về Khúc xạ học, Sao băng và Hình học . Trong Luận về phương pháp, Descartes đã trình bày các phương pháp “để dẫn dắt lý trí một cách đúng đắn và để tìm kiếm chân lý trong khoa học”, nói cách khác là để xóa bỏ khoa học cũ và xây dựng lại khoa học dựa trên các căn cứ duy lý.

Từ lối tư duy độc lập chỉ thiên về lý trí, chỉ tin vào lý trí. Nghiên cứu triết học cơ bản của Descartes đòi hỏi phải có phương pháp phân tích. Và để có thể phân tích ra từng chi tiết của vấn đề, điều căn bản trước tiên mà một nhà khoa học chân chính phải có chính là sự hoài nghi. Sự hoài nghi là một nguồn lực thúc đẩy con người đi tìm kiếm kiến thức, tìm kiếm những hiểu biết mới, đi dần tới chân lý đích thực. Nếu không biết hoài nghi, tư tưởng con người sẽ đứng yên tại chỗ, điều này sẽ dẫn tới tâm lý thỏa mãn, nguyên nhân của tính bảo thủ và những ngu dốt sẽ ngày một phát sinh. Và Descartes chính là nhà triết học lấy nhận thức và lý trí hoài nghi sự vật để tìm hiểu sự vật, từ đó coi tư duy là tất cả giá trị của con người." Trong các tác phẩm của ông đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Muốn trở thành người thông thái, thì ít nhất một lần trong đời, ta phải biết hoài nghi về tất cả”, “Tất cả những gì còn một chút hoài nghi đều bị coi là tuyệt đối sai lầm”. Ông chỉ chấp nhận những gì khi nó không còn có nghi vấn. Chính những hoài nghi đã trở thành phương tiện để đạt tới chân lý. Ông xem triết học là khoa học của tư duy, có vai trò rất lớn trong đời sống con người. Ông phê phán chủ nghĩa kinh viện đã tạo ra một tri thức ít ỏi. Descartes khẳng định về bản chất hệ thống triết học của ông là “khác với các nhà thần học; tôi với tư cách là nhà triết học đã trình bày một triết thuyết không hề tuân thủ một tôn giáo nào...Và do vậy có thể được tiếp nhận khắp nơi...” Thật vậy, vì triết học của ông không tuân thủ một tôn giáo nào nên nó thoát ra tất cả những giáo điều mà các tôn giáo đã áp đặt. Chính vì nó thoát ra khỏi tôn giáo cho nên được nhân loại chấp nhận một cách khách quan.

“Tôi tư duy tức là tôi tồn tại” – câu nói bất hủ của nhà triết học người Pháp René Dercaster và cũng là nguyên lý chính trong học thuyết của ông - triết học duy lý với tinh thần hoài nghi – một nguyên lý triết học đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong lối tư duy lý tính của người phương Tây, thậm chí trở thành một phong cách sống của con người hiện đại. Nguyễn Tường Bách đã nhận định: “Câu nói xem ra đơn giản này được hiểu nhiều cách khác nhau. Nhưng cách đơn giản nhất hẳn là, nếu không có tư duy con người không thể được xem là “hiện hữu”, con người sẽ đồng như gỗ đá. Thực thế, tư duy làm nên tính cá thể của mỗi một con người. Trong toàn bộ loài người thì tư duy là nền tảng của mọi tri thức, của khoa học và triết học. Ngôn ngữ là sự phát biểu của tư duy. Có thứ ngôn ngữ sắc gọn như toán học, phức hợp như triết học nhưng tất cả ngôn ngữ đều dựa trên tư duy. Tư duy là nền tảng của nền văn minh nhân loại”. Bằng tư duy lý trí, con người có thể đạt đến tất cả những sự hiểu biết mà các giác quan không thể đem đến. Và chỉ có tri thức lý tính mới là chính là chân lý tuyệt đối và đáng tin cậy. Từ đó có thể thấy vấn đề cơ bản của triết học Descartes là sự đề cao nhận thức lý tính đối lập với nhận thức cảm tính, là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy.

Điều đó có thể được giải thích bằng lập luận rằng : Bởi nếu bạn không hiện hữu thì làm gì có cái tư tưởng đang nghi ngờ tất cả mọi sự thế này. Bạn đang nghi ngờ tất cả, nên nghi ngờ luôn các định luật logic, nên tất cả những cái gì mà bạn biết hay suy ra được đều không rõ ràng và chắc chắn. Nếu bạn chưa nghiệm ra được, bạn cần nhắm mắt lại lần nữa, hay nhiều lần nữa, đặt mình trong tâm trạng nghi vấn tất cả, bạn sẽ có thể tập dần dần ý thức chủ quan của mình, và đi đến một cảm nghiệm không thể chối cãi được về sự hiện hữu của chính mình, như một chủ thể, chứ không phải như một đối tượng khách quan.

Trong diễn biến đó người ta không nên để cho mình thất vọng khi chủ thể tư duy được đặt làm trọng tâm một cách chủ ý đầy khéo léo. Nói cách khác, hình thức những suy niệm thực ra không được xây dựng trên tính chất duy ngã nông nổi và ích kỷ, nhưng là trình bày về phương pháp của Descartes. Nói cách khác, diễn tiến sự nhận thức – nơi Descartes là một tác động của tinh thần – cần phải mở ra trong những bước đi suy lý có trật tự không chỉ đối với chủ thể tư duy mà còn khả thi đối với độc giả nữa, là người cũng có thể tham dự vào hành động nhận thức.

Bởi vì, nếu tất cả mọi sự đều có thể bị nghi ngờ, thì ít ra một điều chắc chắn đối với tôi là tôi đang nghi ngờ. Để có được hoài nghi này, thì sự tách biệt cần thiết khỏi tất cả mọi tình huống ngoại cảnh phải được dựa trên một điều kiện rõ ràng mà người ta thường hay bỏ qua không nhìn thấy: Lý do tuyệt đối của tri thức mà Descartes cố công gầy dựng nên cần tới một vị trí đặc biệt của một chủ thể tự do. Bởi vì, chỉ khi đặt nền tảng trong sự tự do thì khả năng con người mới có thể tách mình ra khỏi tất cả những sự vật ngoại giới mà thôi. Qua đó, Descartes muốn nói rằng bây giờ ông đã tìm ra được một con đường dẫn tới một sự nhận thức rõ ràng chính xác cuối cùng, hoàn toàn bất khả đổi thay: Đó chính là sự hiện hữu cá thể của tôi như một hữu thể tinh thần.

3. ỨNG DỤNG CHỦ NGHĨA DUY LÝ CỦA DESCARTES
Chủ nghĩa duy lý của triết gia Descartes qua câu nói bất hủ “Tôi tư duy nên tôi tồn tại” đã giúp cho nền triết học của phương Tây nói riêng mà còn cho cả thế giới nói chung phát triển một cách mạnh mẻ. Chính vì sự nghi ngờ mà con người không an phận với những hiện trong tự nhiên, chấp nhận những gì thiên nhiên đã tạo. Con người không chấp nhận mình phụ thuộc vào thiên nhiên và những thế lực siêu nhiên chi phối. Con người không chỉ tin vào khả năng của mình mà bắt thiên nhiên phải phục vụ cho mình qua tư duy sáng tạo.

Qua câu nói này cũng hàm một ý nghĩa là con người ta sẽ không chết không dể dàng đầu hàng với bất cứ thứ gì vì con người có sự tư duy. Chính sự tư duy này mà con người còn hiện hữu trên thế gian này và cũng chính tư duy mà con người còn tạo ra nhiều sản phẩm để tồn tại. Chính vì sự tư duy không hài lòng với những gì đã có mà con người ngày càng tạo ra nhiều phương tiện phục vụ cho đời sống của mình.

Hiện nay, trong tất cả lĩnh vực nào cũng đòi hỏi sự tư duy, vì tư duy để sáng tạo và sáng tạo để giúp cho con người tồn tại trong xu thế “toàn cầu hoá”. Với nền kinh tế hội nhập trên thế giới thì sự tư duy để tìm ra những phát minh mới rất cần thiết. Và mỗi người ai cũng cần tư duy để không phải lạc hậu giữa thế giới công nghệ thông tin phát triển như hiện nay nếu không sẽ tự đào thải mình.

KẾT LUẬN
Tư tưởng triết học của ông đã giữ vai trò một khởi nguyên mới, ông đã có công đấu tranh thống nhất sự thống trị mười mấy thế kỷ của triết học kinh viện, mở đường cho nền triết học Tây phương ngày nay. Ảnh hưởng của thuyết Descartes rất lớn lao, có thể nói lịch sử triết học đã gắn liền với lịch sử thuyết Descartes.

Điểm then chốt của triết học của Descartes qua câu “Tôi tư duy nên tôi tồn tại” đã đặt nền cho một hướng triết học mới : quan tâm đến mối tương quan, tương tác giữa chủ thể ý thức - tri thức và đối tượng khách quan mà các hệ thống triết học phổ thông trước không quan tâm đến vấn đề này. Descartes đã đặt vấn đề về sự tương xứng giữa thế giới bên ngoài và nội dung của tri thức con người ; và ông khởi đi từ một tiền đề không thể chối cãi về chủ thể ý thức - tri thức để xây dựng một hệ thống triết học về sự hiện hữu của thế giới khách quan.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bách khoa toàn thư Wikipedia
2. Nguyễn Tiến Dũng, Triết học phương Tây, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh
3. Trần Thái Đỉnh, Triết học Descartes, Nxb Văn học, 2005
4. Nguyên Bảng, Descartes và tinh thần duy lý trong văn hóa phương Tây
5. Lê Phương Thảo, Ảnh hưởng của tinh thần duy lý Descartes trong văn học cổ điển Pháp
6. Nguyễn Tường Bách, Trên đỉnh Linh Thứu nhớ Descartes
7. Nguyễn Hoàng lược dịch từ La Recherche, Descartes và niềm hy vọng sống lâu trăm tuổi, Tạp chí Tia Sáng
8. Nguyễn Cang, Tư tưởng nghi ngờ của Descartes
9. Nguyễn Hữu Thy, Tôi tư duy nên tôi hiện hữu, Vietcatholic.net
10. Thích Nữ Hương Nhũ, Bài giảng Triết gia René Descartes

Pháp Như

Read more...

Ý nghĩa lá cờ Phật giáo

Lá cờ Phật Giáo là biểu tượng của Phật Giáo qua sự hiện hữu của đạo Phật trong cuộc đời này.
Cờ Phật Giáo do Đại tá Henry Steel Olcott (1832-1907), người Hoa Kỳ theo học Phật Pháp cùng với Thượng tọa H. Sumangala, người Tích Lan, đã phỏng theo sáu màu hào quang của Đức Phật để phác họa vào năm 1889. Những màu hào quang của Đức Phật là: xanh, vàng, đỏ, trắng, cam và màu tổng hợp của năm màu vừa kể.

Lá cờ này đã được treo lần đầu tiên tại các chùa Tích Lan vào dịp lễ Phật Đản 1889. Sáu mươi mốt (61) năm sau tại Đại Hội Phật Giáo Thế Giới đầu tiên tổ chức ngày 25 tháng 5 năm 1950 tại thủ đô Colombo, nước Tích Lan, gồm có hai mươi bảy (27) quốc gia hội viên thuộc Á châu, Âu châu và Bắc Mỹ tham dự, đã chính thức công nhận làm cờ Phật Giáo Thế Giới. Hiện nay lá cờ được khoảng tám mươi (80) quốc gia trên thế giới xử dụng trong các ngày lễ Phật Giáo.

Màu tổng hợp tượng trưng cho hòa bình an lạc như một hợp chất duy nhất không thể tách rời được. Tượng trưng cho từng phần của ngũ căn, ngũ lực, ngũ uẩn phải dính liền với nhau thì việc tu tập mới thành công được.

Ngoài ý nghĩa tinh thần ra, màu cờ Phật Giáo còn tiêu biểu cho màu da, chủng tộc của các sắc dân, không phân biệt da vàng, da đen, da trắng, da đỏ v.v... Mà tất cả con người trên thế giới đều là anh em với nhau cùng tôn thờ lý tưởng Phật Giáo để cùng nhau bắt tay xây dựng và phát triển ngôi nhà chánh pháp của Đức Như Lai.

Lá cờ Phật Giáo Thế Giới được tung bay lần đầu tiên ở Việt Nam tại kỳ Đại Hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức tại Hà Nội năm 1951, cùng lúc bài Phật Kỳ "Phật Giáo Việt Nam" do nhạc sĩ Lê Cao Phan sáng tác, đã đem lại cho người Phật Tử niềm phấn khởi, tin tưởng nơi các đại biểu toàn quốc. Sau kỳ đại hội này làn sinh khí Phật Giáo Việt Nam được hồi sinh sau một thời gian vắng bóng vì hoàn cảnh đất nước.

Lá cờ Phật Giáo Thế Giới được dương cao lên ở bất cứ nơi nào, chứng tỏ rằng ở đó chánh pháp được phát huy và con người thấm nhuần trong giáo lý giải thoát, giác ngộ của đạo Phật vậy.
Chữ Hiếu trong đạo Phật.

Đức Phật đã dạy: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh; nói cách khác, tất cả chúng sanh ai cũng có tâm Phật bẩm sinh như nhau. Mỗi người tùy theo hành động sáng suốt hay mê lầm của thân, miệng, ý mà làm cho tâm Phật hiển lộ hay lu mờ đi. Ví dụ khi chúng ta an lạc, hoan hỷ cùng với niềm vui và hạnh phúc của mọi người, chia xẻ nỗi buồn với họ, đó là lúc ta sáng suốt, không để mờ tâm Phật; trái lại khi ta giận dữ, ngã mạn, cuồng tín v..v.. là lúc ta đã chuyển cái tâm Phật nơi ta thành một thứ lửa địa ngục rồi. Một trong những loại tư tưởng trong sáng, mát mẻ, nuôi dưỡng tâm Phật của chúng ta là lòng hiếu thảo hay hiếu đạo.

Lòng hiếu thảo là lòng biết ơn đối với cha mẹ mình, mong muốn được đền đáp công ơn ấy. Về điểm này thì loài người hơn hẵn loài vật, vì vậy lòng hiếu thảo là một đặc trưng để phân biệt loài người với súc sinh. Loài vật cũng biết thương con nhưng không biết thương cha mẹ. Có một giống chim còn ăn thịt cha mẹ khi chúng đã lớn khôn, nhưng chúng ta không thể trách chúng là bất hiếu vì chúng nó là súc sinh, chỉ biết sống theo bản năng, không thể hiểu được hiếu đạo và luân lý của loài người. Đức Phật đã ân cần dạy chúng ta rằng: Gặp thời không có Phật, thờ phụng cha mẹ chính là thờ phụng Phật. Do vậy, kinh dạy rằng: một trong những nỗi bất hạnh lớn nhất của con người là không được nghe đến những chữ Phật và Cha Mẹ. Làm tròn chữ Hiếu là coi như đã đi được nửa con đường tu đạo rồi. Ở đây có một điều đáng cho chúng ta suy ngẫm: lòng hiếu thảo thế gian thường tình có phải còn nặng về ngã chấp không? Thật vậy, người con hiếu có thể chỉ thương cha mẹ mình chứ không thương cha mẹ người khác, vì thế, cái tâm hẹp hòi này có thể gây ra đau khổ phiền não cho người và cả cho mình. Ví dụ như một người kia muốn mua tặng mẹ một món quà nhưng không có tiền, anh ta bèn ăn cắp tiền của bà nhà giàu hàng xóm, chẳng may bị bắt gặp, bà ta kêu lên, anh ta đánh bà ta bị thương và kết quả là anh bị ngồi tù. Có hiếu với mẹ đâu không thấy chỉ thấy kết quả làm mẹ đau khổ vì hành động xấu của mình, làm bà hàng xóm tự nhiên bị thương và làm mình bị tù! Nhớ có lần Sư cô Trí Hải kể cho chúng tôi nghe rằng: có một chị Phật tử kia nhân ngày giỗ mẹ chị, chị đến bàn Vong lật úp tất cả hình của các vị khác xuống, chỉ để hình của mẹ chị, ý là để một mình mẹ có thể hưởng tất cả các đồ cúng! Ngày xưa quan niệm về chữ Hiếu của ông cha ta cũng rất hẹp hòi, đó là bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại (có 3 điều bất hiếu mà không có con trai nối dõi là tội lớn nhất). Người vợ không sinh con trai được coi như có tội với gia đình chồng, mang tội đại bất hiếu, từ đó sinh ra tục lệ đa thê (nhiều vợ, để kiếm con trai; nếu người vợ không có con trai người chồng có thể lấy vợ khác; có khi có 2, 3 người vợ mà cũng chưa sinh ra con trai !); tục lệ này chúng ta đã biết là đem lại khổ đau cho nhiều người - đặc biệt là cho người đàn bà.

Chữ Hiếu trong đạo Phật đã được nâng cao thành Hiếu đạo. Người Phật tử vừa là người con hiếu thì khi cha mẹ còn sống, phụng dưỡng cha mẹ bằng tình thương, sự chăm sóc và tiền bạc hợp pháp do mồ hôi nước mắt của mình làm ra. Người con hiếu cố gắng làm vui lòng cha mẹ bằng sự dịu dàng, chiều chuộng của mình nhưng quyết không chiều theo những sở thích xấu xa tai hại nếu chẳng may cha mẹ vướng phải (như cờ bạc, rượu chè, nghiện ngập, trộm cắp v.v... ); trái lại còn khuyên cha mẹ quy y Tam Bảo, làm lành tránh ác. Người con hiếu luôn làm tròn bổn phận của mình, không làm điều gì có hại cho thanh danh gia đình mình, mang tiếng xấu cho cha mẹ. Khi cha mẹ chết, lo làm các việc phước thiện như phóng sanh, bố thí, ấn tống kinh sách để phổ biến Phật Pháp để cầu nguyện và hồi hướng công đức đến cha mẹ mình. Từ lòng thương cha mẹ mình, người Phật tử trãi lòng thương ấy đến cha mẹ của tất cả mọi người mọi loài, nghĩa là đến tất cả chúng sanh. Hơn ai hết, người Phật tử hiểu được rằng trong dòng luân hồi vô thỉ vô chung này, ai cũng đã từng làm cha mẹ mình, con cái mình. Do vậy sát sanh là hại mạng sống của cha mẹ mình ở nhiều đời nhiều kiếp trước vậy. Không những thế, người Phật tử không theo thường tình thế gian báo thù cho cha mẹ bằng cách giết kẻ thù vì suy cho cùng làm như vậy là giết cha mẹ mình ở kiếp trước để báo thù cho cha mẹ của kiếp này. Cứ như thế, oan oan tương báo cho đến bao giờ mới dứt! Kinh Phạm Võng dạy: Hiếu nghĩa là giữ giới, là ngăn các điều ác. Thật vậy, chỉ cần giữ giới và ngăn các điều ác là chúng ta đã thực hành hiếu đạo rồi, vì đó là đầu mối của các hạnh lành và cũng là căn bản của giác ngộ và giải thoát.

Hiếu đạo theo Phật giáo hướng dẫn chúng ta đi trên con đường rộng lớn thênh thang của tình thương Vô Ngã, giúp chúng ta vượt khỏi biên giới hẹp hòi của ngã chấp hạn cuộc, nguyên nhân gây bao đau khổ cho người và cho chính mình. Đó chính là sự mầu nhiệm của Vu Lan Bồn. Nhờ năng lực chú nguyện của 10 phương Tăng sau 3 tháng an cư thanh tịnh mà mẹ của Ngài Mục Kiền Liên cùng tất cả tội nhân khác của địa ngục được giải thoát. Nhờ lòng thương mẹ, Ngài Mục Kiền Liên đã trãi lòng thương đến mọi loài chúng sanh, phát lời nguyện rộng lớn: Địa ngục chưa trống thì tôi thề không thành Phật; cho đến bao giờ mà tất cả chúng sanh đều được giải thoát thì tôi mới chứng Đạo Bồ Đề.

Nguyện cho tất cả các bậc cha mẹ còn tại thế thân tâm an lạc tật bệnh tiêu trừ, đã qua đời, dù đang ở trong cõi nào cũng luôn an trú trong tâm Phật và tích cực hướng về Cực Lạc Quốc. Cầu chúc cho tất cả chúng ta đều là những người con hiếu để hưởng trọn một mùa Vu Lan an lạc và giải thoát.

Read more...

Vai trò của nhân viên xã hội trong việc giúp trẻ em đường phố tái nhập cộng đồng

DẪN NHẬP
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” đó là khẩu hiệu mà các quốc gia và cộng đồng quốc tế hướng tới nhằm mục đích chăm sóc, bảo vệ tương lai của mỗi quốc gia và nhân loại. Việt Nam cũng là một đất nước để cao khẩu hiệu này. Trong những năm qua, nền kinh tế thị trường đã đưa Việt Nam hội nhập cùng thế giới. Quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá dần phát triển giúp người dân có cuộc sống về tinh thần và vật chất tốt hơn xưa rất nhiều. Tuy nhiên khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng chênh lệch. Khi nông thôn được đô thị hoá thì người dân có nguy cơ bị thất nghiệp cao, gia đình rơi vào khủng hoảng dẫn đến những biến động. Nhiều gia đình phải rời bỏ nông thôn lên đô thị tìm kế sinh nhai nhưng cuộc sống của họ gặp rất nhiều trắc trở. Chính vì thế mà xung đột gia đình xuất hiện công với sự khủng hoảng kinh tế gia đình đã dẫn đến các cuộc ly hôn. Và hậu quả của những cuộc ly hôn đó đã đẩy những đứa trẻ trở thành những trẻ em đường phố.

Trong khi Nhà nước đang tập trung vào phát triển nông thôn thì vấn đề trẻ em và thanh thiếu niên di cư cũng được giải quyết tại những nơi mà từ đó các em đã bỏ ra đi. Thành phố Hồ Chí Minh là nơi phải gánh chịu nạn di dân từ mọi miền đất nước và trẻ em đường phố ngày càng nhiều. Chúng bỏ học sớm, thiếu giấy khai sinh hoặc giấy chứng minh, rất dễ dàng trở thành nạn nhân của mọi hình thức bóc lột.

Thông qua bài viết ngắn này người viết dùng những tư liệu sẵn có của các nhà nghiên cứu để nói lên thực trạng về trẻ em đường phố tại Thành phố Hồ Chí Minh và vai trò của một nhân viên xã hội nhằm giúp cho mọi người có cái nhìn sâu sắc hơn về tình hình đáng báo động này.

NỘI DUNG
1. THỰC TRẠNG TRẺ EM ĐƯỜNG PHỐ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Theo khảo sát mới đây của Sở Lao động Thương binh và Xã hội, thành phố có trên 10.000 trẻ lang thang kiếm sống trên các đường phố không nhà, không có nơi che chở hay được chăm sóc, nhiều nhất là các em đến từ miền Trung [1]. Trong đó, hơn 5.000 em không biết chữ hoặc bỏ học. Khoảng 28% số trẻ sống trên đường phố là bé gái. Theo đa số đại biểu, trẻ lang thang là sản phẩm của quá trình biến đổi xã hội, sự nghèo đói, đô thị hóa, gia đình tan vỡ. Những trẻ em này dễ bị tổn thương và là nạn nhân bị bóc lột lao động, HIV/AIDS, lạm dụng tình dục và bị đối xử tàn tệ. Hằng năm có gần 500 em được tổ chức hồi hương, nhưng số trẻ đổ về thành phố vẫn gấp đôi con số này.

Mục đích cơ bản của trẻ đường phố là hoạt động tự kiếm tiền để nuôi sống bản thân và điều này không hề dễ dàng đối với chúng. Không nghề nghiệp, túng quẫn nên trẻ dễ rơi vào các công việc phạm pháp. Thực tế, đi giao ma túy, mại dâm, cướp vặt… là những “việc” mà nhiều trẻ đường phố làm nhất, hoặc tự nguyện, hoặc bị cưỡng ép. Trẻ cũng phải chịu áp lực, đe dọa từ nhiều đối tượng: là đối tượng thu gom của công an, bị khống chế bởi các nhóm “anh chị”. Cuộc sống vất vưởng, bấp bênh với thân phận yếu hèn cũng làm cho các em có cảm giác lo sợ, luôn sống trong trạng thái không được an toàn.

Theo bác sĩ Trương Trọng Hoàng, Phó giám đốc Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe, Sở Y tế TP HCM, nêu lên sáng ngày 30 tháng 12 năm 2008, trong buổi tổng kết dự án “Cung cấp cho giáo dục viên những kỹ năng làm việc với trẻ em đường phố về HIV/AIDS". Hiện trẻ em đường phố tại TP HCM vẫn tiếp tục phải đối mặt với nhiều vấn đề về sức khỏe như bị hiếp dâm và quấy rối tình dục, bị dụ dỗ quan hệ đồng tính nam, bị trấn lột, cướp giật hay bị nhiễm các loại bệnh tật liên quan đến việc lượm rác mưu sinh… Nhiều em do thiếu hiểu biết đã nghiện ngập từ bé, số khác bị lây nhiễm HIV.

Theo số liệu của sở Lao động Thương binh-Xã hội, hiện nay Thành phố có 54 nhà tình thương, nhà mở và các cơ sở bảo trợ xã hội khác[2]. Có thể nói, phần lớn trẻ lang thang đường phố đã có địa chỉ đi về. Các em được đi học văn hoá, đa phần theo học hệ bổ túc hay phổ cập, có rất ít em học phổ thông. Nhiều em cũng được đào tạo nghề ở các trường trung cấp dạy nghề, hoặc những cơ sở dạy nghề trong Thành phố.

Tuy nhiên, theo bà Lương Thị Thuận, Chủ nhiệm Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em cho biết, một số cơ sở không đăng ký thủ tục pháp nhân. Những cơ sở này lấy danh nghĩa hoạt động từ thiện, nhưng thực chất là tận dụng sức lao động, không có điều kiện cần thiết và không biết định hướng giáo dục các em.

2. KHÓ KHĂN CỦA TRẺ EM ĐƯỜNG PHỐ KHI HOÀ NHẬP CỘNG ĐỒNG
Đối với trẻ em đường phố thì sự hoà nhập với cộng đồng là một điều hết sức khó khăn. Theo ông Nguyễn Văn Xê, Phó Giám đốc Sở Lao động Thương binh và Xã hội, việc tổ chức các lớp học cho trẻ đường phố một cách hiệu quả tuỳ thuộc nhiều yếu tố. "Trẻ lang thang không ở cố định một nơi nên việc tập trung các em lại cũng không dễ dàng và không phải em nào cũng siêng năng, kiên trì với việc học. Các ban ngành, đơn vị chức năng nên chú trọng vào giải pháp xã hội hoá, nên đưa các em trở về cộng đồng và dựa vào cộng đồng hỗ trợ các em". Còn theo ông Nguyễn Văn Buồm, Trưởng phòng Nghiên cứu Phát triển nguồn nhân lực trẻ, Viện Nghiên cứu Thanh niên thì khó khăn đầu tiên là trẻ đường phố bị quan niệm không mấy tốt đẹp của nhiều người, các em bị “dán nhãn” là “người lang thang”. Vì vậy mà các em khó hòa nhập cộng đồng, tìm việc làm…

Tác giả Tim Bond, chấp bút sách “Nghiên cứu về trẻ em đường phố ở TP.HCM” thì nhận định, trẻ bụi đời ở bất cứ nơi đâu trên thế giới đều rất giống nhau, cả vẻ bề ngoài lẫn trong hành vi. Mặc dù giữa các nước đều có những khác biệt về văn hóa, tôn giáo, giá trị tinh thần. Và theo ông, “sự ghen ghét” của mọi người đối với đối tượng này là tình cảm phổ biến nhất trong tất cả sự khinh rẻ, giận dữ, thương hại, sợ hãi… Đây là vấn đề gây nhiều khó khăn cho các em và cả xã hội, mặc dù hiện nay có khá nhiều chính sách trợ giúp cho trẻ đường phố trong cuộc sống.

3. VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN XÃ HỘI TRONG VIỆC GIÚP TRẺ EM ĐƯỜNG PHỐ TÁI NHẬP CỘNG ĐỒNG
Đối với trẻ em đường phố dù có được đưa vào các trung tâm, các nhà mở, các tổ chức xã hội. Các em được có cơm ăn áo mặc, được học hành nhưng sự mặc cảm tự tin vẫn luôn hiện hữu trong tâm trí của các em. Nhiều em bị cha mẹ bỏ rơi chúng thường có tư tưởng không còn dám tin ai nữa. Vì người sinh ra mình đã bỏ rơi mình thì có ai là thương yêu mình thật lòng đâu. Chính vì thế mà nhiều em không vượt qua được mặc cảm của mình nên các em sống khép kín, buồn bã, không quan tâm đến việc học hành. Nhiều em gái đang trong tuổi dậy thì lại không am hiểu các kiến thức về giới tính nên đã để lại nhiều hậu quả đáng tiếc. Chính vì thế mà vai trò của nhân viên công tác xã hội đề ra những việc sau đây:

- Thứ nhất: Do sự tự ti bị bỏ rơi nhiều em rơi vào trầm cảm, ít nói nên các em không tin là có tình thương thật sự từ con người với con người. Có nhiều em mặc cảm với tội lỗi của mình trước kia nên sống khép kín hoặc có những suy nghĩ tiêu cực. Vì vậy, vai trò của người nhân viên xã hội cần phối hợp với những người bạn, các tổ chức xã hội, đến tham viếng, trò chuyện động viên chia sẽ với các em như người thân để giúp các em thoát khỏi sự tự ti mặc cảm mà hoà nhập với cộng đồng. Như vậy sẽ tạo cho các em sống lạc quan hơn và có niềm tin trong cuộc sống.

- Thứ hai: Người nhân viên xã hội nên trang bị cho mình những kỹ năng về sinh hoạt cộng đồng, biết tổ chức những cuộc vui chơi giả ngoại cho các em, giúp các em khoay khoả một phần nào của cuộc sống. Tạo sự thân mật gần gũi với các em như người thân, biết lắng nghe những tâm tư nguyện vọng và tôn trọng những ý kiến của các em để các em biết rằng các em vẫn còn có người để chia sẽ, xã hội còn có những tấm lòng quan tâm đến các em.

- Thứ ba: Hiện tại chính sách nuôi dạy các em ở các trung tâm chỉ đến 16 tuổi sau đó cho các em hồi gia. Nhưng thiết nghĩ nếu các em không được học hành đến nơi đến chốn khi trả các em về thì nguy cơ “ngựa quen đường cũ” không thể không xảy ra, lúc đó xã hội phải đối mặt với những tội phạm không phải là trẻ em nữa. Vì vậy mà chính sách giáo dục về học vấn, nhận thức và cả nghề nghiệp để trang bị cho các em để sau này các em hội nhập là rất cần thiết. Người nhân viên xã hội phải trở thành một tình nguyện viên trên lĩnh vực giáo dục. Hiện tại các sinh viên còn đang học trong các trường đại học rất nhiều mà nhiều em tại các trung tâm rất cần học thêm những kiến thức như Toán, Lý, Hoá.. mà đặc biệt là Anh văn. Những kiến thức này giúp các em tiếp thu nhanh những bài học ở trường. Vã lại muốn các em sao này trở thành người có ích cho xã hội thì nhà nước phải có chính sách phù hợp mà đặc biệt trao cho các em kiến thức thông qua việc giáo dục văn hoá.

- Thứ tư: Có một bộ phận trẻ lang thang là đối tượng dễ bị tác động bởi các tiêu cực xã hội như: xâm hại tình dục, hút chích, đầu gấu... Việc học tập của các em phải bao gồm cả kỹ năng giúp các em phòng tránh những tiêu cực trên". Vấn đề dạy đạo đức cho các em cần có cơ chế phối hợp của nhiều ban ngành. Trước hết người nhân viên xã hội cần có những kiến thức về giới tính, về hậu quả của việc phạm pháp, đến cả kiến thức về HIV/AIDS để tuyên truyền cho các em, nhất là các em trong độ tuổi vị thành niên.

- Thứ năm: Phần lớn, trẻ vị thành niên khi rời các cơ sở Bảo trợ xã hội trở về cộng đồng thường không còn hoặc không tìm được người thân trong gia đình. Dù đã rời bỏ cuộc sống lang thang, nhưng lỗi lầm của quá khứ vẫn chưa từ bỏ chúng, rất nhiều cơ sở sản xuất tư nhân không chấp nhận trẻ vào làm khi biết đó là trẻ lang thang. Quá khứ là một điều không thể ai cũng dể dàng quên đi, mà các em lại là trẻ vị thành niên nên sự tổn thương rất lớn. Khi các em đã trở về với gia đình với xã hội thì việc rơi vào những lỗi lầm trước đây không thể không diễn ra. Chính vì thế đòi hỏi người nhân viên xã hội phải có trách nhiệm thường xuyên theo dõi, giám sát và giúp đỡ các em kịp thời để tránh cho các em sa vào đường cũ.

- Thứ sáu: Trẻ em là tương lai của đất nước, nên các em có quyền được học hành, được vui chơi, được sống trong vòng tay yêu thương của gia đình. Việc nuôi dưỡng, giáo dục các em phải bắt nguồn từ gia đình và nhà trường, nhưng các em không may mắn bị vứt ra ngoài xã hội nên ảnh hưởng một thế hệ trong tương lai của nước nhà. Chính vì thế vai trò của người nhân viên là giúp các em trở thành một người tốt, sống có ích khi hoà nhập với cộng đồng. Như vậy là người nhân viên xã hội không chỉ giúp cho các em mà còn giúp cho cho đất nước có được một thế hệ tương lai không tốt đẹp hơn.

KẾT LUẬN
Tình trạng trẻ bụi đời ở Thành phố đã đến mức báo động cả về số lượng lẫn mức độ nghiêm trọng của những hậu quả tai hại đã phá hoại cuộc đời rất nhiều trẻ, nhất là nạn ma túy và mại dâm trẻ em. Để tránh việc đẩy các em thành trẻ em đường phố các gia đình nên thực hiện kế hoạch hoá gia đình để nuôi dạy con em mình. Các bậc làm cha làm mẹ nên quan tâm đến các em hơn, dù cuộc sống có vất vả như thế nào hãy giữ các em lại gia đình khôgn nên bỏ rơi các em. Cho dù có đưa các em vào trong những trung tâm bảo trợ nhưng khát khao có một gia đình êm ấm vẫn là điều hạn phúc đối với các em hơn.

Đới với xã hội mọi người cũng không nên kỳ thị với các em có những lầm lỗi trước đây. Hơn bao giờ hết các em vẫn cần những tấm lòng, vẫn cần những chỗ nương tựa trong tình thương giữa người với người. Hãy chấp nhận các em khi các em đã trở về với cuộc sống. Điều này nếu ngay lúc này mọi người có cái nhìn đúng đắn thì phạm vi và bản chất của những vấn đề đang gây ảnh hưởng đến xã hội nói chung và từng trẻ em nói riêng vẫn còn có thể ngăn chặn được ở TP.HCM.

Bên cạnh đó, người nhân viên xã hội quan tâm động viên các em, cho các em có niềm tin vào cuộc sống để các em tái hoà nhập cộng đồng. Chỉ cần một nghĩa cử bình dị mà cao đẹp như thế sẽ là những động lực để các em tiệp tục sống và hy vọng. Cuộc sống này vẫn đệp biết bao khi có nhữung tấm lòng biết san sẻ hy sinh.
[1] Nguồn từ website http://www.ambhanoi.um.dk
[2] Nguồn từ Sở Lao Động – Thương Binh và Xã Hội Thành phố Hồ Chí Minh
Pháp Như (Bài viết môn Công tác xã hội tại trường Đại học Tôn Đức Thắng)

Read more...

Thứ Năm, 8 tháng 1, 2009

Chúc xuân bà con.

1. CHÚC MỪNG NĂM MỚI. 12 tháng phú quý, 365 ngày phát tài, 8760 giờ sung túc, 525600 phút thành công 31536000 giây VẠN SỰ NHƯ Ý. Wishing you 1 year of happiness, 12 months of fun, 52 weeks of gladness, 365 days of success, 8760 hours of good health and 525600 minutes of good luck !(cách này dùng nhắn tin là hợp lí nhất )

2. HAPPY NEW YEAR! Chúc năm mới

3. Ngàn lần như ý, Vạn lần như mơ, Triệu sự bất ngờ, Tỷ lần hạnh phúc.

4. Tống cựu nghênh tân – Vạn sự cát tường – Toàn gia an phúc

5. Năm hết tết đến. Rước hên vào nhà. Quà cáp bao la, một nhà không đủ. Vàng bạc đầy tủ. Gia chủ phát tài. Già trẻ gái trai, sum vầy hạnh phúc. Cầu tài chúc phúc. An lành thịnh vượng.

6. Tết tới tấn tài – Xuân sang đắc lộc, Gia đình hạnh phúc - Vạn sự cát tường

7. Đong cho đầy Hạnh phúc. Gói cho tròn Lộc tài. Giữ cho mãi An Khang. Thắt cho chặt Phú quý. Cùng chúc nhau Như ý, Hứng cho tròn An Khang, Chúc năm mới Bình An. Cả nhà đều Sung túc.

8.Mùa xuân xin chúc

Khúc ca an bình

Năm mới phát tài

Vạn sự như ý

Già trẻ lớn bé

Đầy ắp tiếng cười

Trên mặt ngời ngời

Tràn đầy hạnh phúc

Xuân đến hy vọng

Ấm no mọi nhà

Kính chúc ông bà

Sống lâu trăm tuổi

Kính chúc ba mẹ

Sức khoẻ dồi dào

Đôi lứa yêu nhau

Càng thêm nồng ấm

Các em bé nhỏ

Học giỏi chăm ngoan

Chúc Tết mọi người

Năm mới hoan hỉ

Gặp nhau niềm vui...

9. Sang năm mới chúc mọi người có một bầu trời sức khoẻ, một biển cả tình thương, một đại dương tình cảm, một điệp khúc tình yêu, một người yêu chung thủy, một tình bạn mênh mông, một gia đình thịnh vượng. Chúc các bà, các ông, các cô, các chú, các chị, các anh sang năm mới vạn sự như ý, tỷ sự như mơ, làm việc như thơ, đời vui như nhạc, coi tiền như rác, coi bạc như rơm, chung thủy với cơm và sắc son với phở. Chúc vui vẻ

10. Cung Chúc Tân Xuân Phước Vĩnh CửuChúc Trong Gia Quyến Được An KhươngTân Niên Lai Đáo Đa Phú QuíXuân Đến An Khương Vạn Thọ TườngChúc các bạn có 1 cái tết vui vẻ , hạnh phúc , vạn sự như ý , "tiền vào như nước sông Đà . Tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin "

Read more...

Thứ Năm, 1 tháng 1, 2009

Đón năm mới trên thế giới

(VOV) - Hướng tới năm mới với niềm hy vọng mới,nhưng nhiều người vẫn không khỏi lo lắng cho tương lai, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay. Nhiều hoạt động đón mừng Năm Mới diễn ra trên khắp thế giới.



21g ngày 31/12 (giờ Việt Nam), bầu trời Sydney (Australia) sáng rực pháo hoa mừng năm mới. Ban tổ chức “đại tiệc pháo hoa” tại Sydney hy vọng mang đến cho những người tham dự một chút thư giãn sau khi đã quá mệt mỏi với tình trạng kinh tế toàn cầu u ám. Đây là một trong những thành phố chính trên thế giới đón giao thừa sớm nhất. Ước tính, hơn 1,5 triệu người đã có mặt tại thành phố này để mừng năm mới.
Tại Ireland, hàng ngàn người dân thủ đô Dublin và khách du lịch tụ tập bên ngoài Nhà thờ Jesus, nhà thờ thời Trung cổ để nghe chuông nhà thờ vào thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới.
Tại thủ đô Paris, Pháp, hơn nửa triệu người đổ về cung điện nổi tiếng Elysse một giờ trước khi chuông rung. Tại London (Anh), bấp chấp giá lạnh, mọi người kéo đến 2 bờ sông Thames chiêm ngưỡng các màn bắn pháo hoa đẹp mắt.


Tại Liên bang Nga, Hơn 100.000 người dân và khách của Moscow sẽ đón năm mới 2009 tại khu vực trung tâm thủ đô Nga.

Liên bang Nga rộng lớn trải dài từ Đông sang Tây trên 11 múi giờ khác nhau. Bởi vậy, năm mới được đón chào tới 11 thời điểm: có những nơi, năm mới đã đến từ giữa trưa theo giờ Moscow và lúc Giao thừa ở Thủ đô Moscow thì họ đã sang giữa ngày mới mùng 1/1/2009 rồi. Không khí mừng đón Năm mới tràn ngập đường phố trên toàn nước Nga từ nhiều ngày nay, khi tại các quảng trường, tuyến phố công cộng, công viên, vườn hoa, những cây thông năm mới đủ loại kích thước lớn, nhỏ với đèn màu, bóng màu và đồ trang trí rất sinh động đã được dựng lên. Trong các cửa hàng, cửa hiệu được trang hoàng lộng lẫy, nhất là các siêu thị bán đồ dùng thiết yếu và thực phẩm, người mua trong 2 ngày nghỉ cuối cùng của năm cũ 2008 vẫn rất đông và giường như cuộc khủng hoảng kinh tế không ảnh hưởng mấy đến dự định mua sắm quà tặng và đồ dùng trong những ngày năm mới này của người dân Nga, nhất là ở thủ đô Moscow và các thành phố lớn.

Thời khắc chuyển giao năm cũ và năm mới theo giờ Moscow (lúc 4 giờ sáng mùng 1/1 giờ Việt Nam) được đánh dấu bằng một hồi chuông điện Kremli vang lên trong tiếng hò reo xen lẫn tiếng nổ của những loạt pháo hoa tầm thấp do người dân tự đốt.

Ngay trước thời khắc giao thừa ít phút, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev phát biểu trên kênh truyền hình Trung ương Nga, trong đó ông gửi lời chúc mừng tới tất cả người dân Nga nhân ngày lễ quan trọng này, thời điểm mà mọi người đều nhớ lại một năm đầy sự kiện với cả hạnh phúc và thất vọng, niềm vui và sự mất mát.

Bài phát biểu của ông Medvedev nhấn mạnh: “Chúng ta đã từng không phải một lần cùng nhau chứng minh rằng, chúng ta có khả năng rất nhiều để có thể chiến thắng. Và trong năm nay Tổ quốc của chúng ta đã vượt qua những thử thách đầy kịch tính, vượt qua một cách tự tin và đó là nhờ tất cả các bạn. Tôi tin tưởng rằng, trước những khó khăn đang chờ đón chúng ta trong năm tới chúng ta có thể chiến thắng”.

Tại Roma, Đức giáo hoàng Benedict XVI kêu gọi “tình đoàn kết và sự điềm tĩnh” trong năm 2009. Trong buổi lễ cầu nguyện cuối năm vào đêm qua, Đức giáo hoàng nhấn mạnh, hiện đang là thời điểm khó khăn, nhưng mọi người cần giúp đỡ lẫn nhau để vượt qua.

Điểm đặc biệt với người dân Slovakia là năm 2009 họ bắt đầu sử dụng đồng euro. 100.000 người tụ tập tại Quảng trường chính ở thủ đô Bratislava, chào mừng nước này trở thành thành viên thứ 16 của Liên minh châu Âu.

Tại Hongkong (Trung Quốc), hàng ngàn người kéo về Cảng Victoria để xem bắn pháo hoa đêm giao thừa.

Tại Malaysia, chính phủ lo ngại về triển vọng kinh tế đã quyết định không tài trợ cho bất kỳ buổi lễ ăn mừng nào. Sau loạt vụ khủng bố ở Mumbai, người dân Ấn độ đón năm mới với hy vọng “Năm 2009 sẽ là năm hoà bình và tiến bộ”.

Đêm giao thừa tại Nhật bản, các đền thờ rung chuông 108 lần, tượng trưng cho xua đuổi 108 điều xui xẻo. Giáo hoàng Nhật bản Akihito trong thông điệp đầu năm kêu gọi người dân đoàn kết chống suy thoái kinh tế. Tại Tokyo, hàng chục tình nguyện viên đã dựng lều và phát chăn màn, quần áo và thức ăn cho người nghèo như một món quà mừng năm mới.
Thủ tướng Taro Aso đã có bài phát biểu chào mừng năm mới. Trong bài phát biểu này, Thủ tướng Nhật Bản Taro Aso bày tỏ quyết tâm vực dậy nền kinh tế nước này. Ông Aso cho biết Nhật Bản có thể không tránh được tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế. Tuy nhiên ông cũng bày tỏ hy vọng giảm thiếu những thiệt hại của cơn “sóng thần tài chính này” gây ra.
Thủ tướng Aso nói: “Tôi tin tưởng rằng sang năm mới 2009 Nhật Bản sẽ là quốc gia đầu tiên thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chúng ta có thể biến điều không may này thành một cơ hội. Những nỗ lực trong xây dựng đất nước Nhật Bản bị tàn phá sau chiến tranh thế giới thứ II sẽ minh chứng cho điều này”.

Thủ tướng Aso còn cho biết thêm ông quyết tâm giữ vững vị trí cường quốc kinh tế thứ 2 thế giới của Nhật Bản, nơi mà mọi người dân có thể vui sống trong hòa bình.

Đối với đất nước Thái Lan, năm 2008 trôi đi thật nặng nề trong bộn bề những khó khăn, âu lo và đó dường như lại càng là cái cớ để người dân nước này đặt nhiều kỳ vọng vào năm mới 2009 sắp tới.

Năm 2008 khủng hoảng chính trị tại Thái Lan tiếp tục kéo dài, trầm trọng sâu sắc hơn kéo theo những ảnh hưởng nặng nề đến mọi mặt đời sống xã hội. Chỉ trong vòng một năm Thái Lan đã có tới 3 lần thay đổi chính phủ, 4 Thủ tướng lần lượt thay nhau nắm quyền lãnh đạo. Ba đảng chính trị bị Toà án Hiến pháp tuyên giải thể trong đó có đảng chiếm nhiều ghế nhất tại Hạ viện là đảng Quyền lực nhân dân. Chính vì vậy, trước thềm năm mới 2009, ước nguyện lớn nhất của hầu hết các tầng lớp người dân Thái Lan là hoà bình, ổn định và tái đoàn kết dân tộc

Dự báo từ nhiều nguồn khác nhau cho rằng, năm 2009 tới đây tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái lan sẽ chỉ ở mức cao nhất là 2%, khoảng 2 triệu công nhân đang đứng trước nguy cơ mất việc làm.

Trước thềm năm mới, tân Thủ tướng Abhisit Vejjajivat cam kết sẽ tìm ra các giải pháp ổn định xã hội, tập trung phát triển kinh tế: “Điều mà chúng ta cần tập trung ưu tiên cao nhất nhất vào lúc này là đưa đất nước trở lại sự bình yên. Mọi người dân Thái Lan thương yêu, đoàn kết với nhau và cùng nhau vượt qua tất cả những trở ngại. Chính phủ sẵn sàng làm tất cả khả năng của mình, quản lý điều hành đất nước mang lại hạnh phúc, tình đoàn kết cho tất cả mọi người”, ông Abhisit nói.

Dù không phải là tết của người Hồi giáo, nhưng đêm chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, tại Ai Cập và một số nước ở khu vực Trung Đông, người dân đã xuống đường, tập trung tại các trung tâm lớn chào đón năm mới.
Tại Ai Cập, ngay từ chiều tối quán cà phê, các trung tâm giải trí đã đông chật người. Ở giây phút giao thời mọi người vui mừng phấn khởi và chào nhau “năm mới hạnh phúc, hòa bình”. Ai cũng mong muốn một năm mới vui vẻ, hạnh phúc và thành đạt. Tại trung tâm thủ đô Cairo, thanh niên tụ tập thành từng nhóm hò hát. Một thanh niên nói: “Tôi mong muốn năm mới công việc của tôi tốt hơn. Tôi chúc cho mọi người có sức khỏe và sống trong hòa bình và đòan kết”
Năm mới ai cũng cầu mong những điều tốt đẹp cho bản thân, gia đình và người thân. Với người dân Trung Đông, thì hòa bình là điều đầu tiên mà họ nói đến. Một người dân Ai Cập cho biết: “Năm mới tôi mong muốn thế giới, đặc biệt là Trung Đông và Palestine sống trong hòa bình. Một năm mới phát triển thịnh vương. Năm mới vui vẻ, hạnh phúc đến với mọi người”.
Nhiều quốc gia Arab hoãn các hoạt động mừng năm mới vì người dân Palestine tại dải Gaza đang hứng chịu bom đạn của Israel./.

Tổng Hợp

Read more...

Đợi chờ - Thanh Lam

Một cõi đi về

Một mình - Thanh Tùng

Ôi quê tôi - Vũ Xuân Bắc

Đóa hoa vô thường (1)

Điệu buồn phương Nam

Mưa bay tháp cổ - Tùng Dương

Đóa hoa vô thường (2)

Như cánh vạc bay






  © Blogger templates ProBlogger Template by Ourblogtemplates.com 2008

Back to TOP